- New Vietnamese Bible 2014 1 Các Vua 1 CÁC VUA 1 Các Vua 1Vua 1 CÁC VUA Giới Thiệu Sách 1 Các Vua tiếp nối sách Sa-mu-ên ghi lại lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Nội dung có thể chia ra làm ba phần: 1. Sa-lô-môn nối ngôi vua Đa-vít và sự qua đời của vua Đa-vít. 2. Cuộc trị vì của vua Sa-lô-môn và đặc biệt là công trình xây cất đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. 3. Quốc gia bị phân chia thành nước Y-sơ-ra-ên và Giu-đa; sự trị vì của các vua cho đến giữa thế kỷ thứ IX trước Công Nguyên. Các vua cai trị cả hai nước đều được xét theo sự trung thành của họ đối với Đức Chúa Trời. Nước được thành công thịnh vượng khi các vua trung thành và vâng phục Đức Chúa Trời của họ; đất nước gặp tai họa khi các vua và dân chúng thờ thần tượng và không tuân phục Chúa. Các vua nước Y-sơ-ra-ên đều thất bại; thành tích các vua nước Giu-đa thì lẫn lộn, có vua thành công, có vua thất bại. Sách Các Vua I cũng ghi chép công việc của các tiên tri, những phát ngôn nhân của Chúa đã can đảm cảnh cáo các vua lẫn dân chúng không nên thờ thần tượng và bất tuân lệnh Chúa. Sách ghi lại nhiều hoạt động của tiên tri Ê-li, đặc biệt là hành động chống lại các thầy tế lễ của thần Ba-anh. Bố Cục 1. Phần cuối của triều đại Đa-vít 1:1–2:12 2. Sa-lô-môn nối ngôi vua 2:13-46 3. Cuộc trị vì của vua Sa-lô-môn 3:1–11:43 a. Thời đại đầu 3:1–4:34 b. Đền thờ được xây 5:1–8:66 c. Thời đại sau 9:1–11:43 3. Quốc gia bị chia hai 12:1–22:53 a. Các bộ tộc miền bắc phản loạn 12:1–14:20 b. Các vua của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa 14:21–16:34 c. Tiên tri Ê-li 17:1–19:21 d. Vua A-háp của Y-sơ-ra-ên 20:1–22:40 e. Vua Giê-hô-sa-phát và A-cha-xia 22:41-53 Tranh Giành Kế Vị Vua Đa-vít đã già và tuổi cao, mặc dù người ta mặc cho vua mấy lớp áo, vua vẫn không cảm thấy đủ ấm. Các bề tôi của vua bèn tâu với vua: “Xin hãy để người ta tìm cho hoàng thượng, chúa của hạ thần, một trinh nữ trẻ, để nàng sẽ hầu hạ và chăm sóc hoàng thượng. Hãy để nàng nằm trong lòng hoàng thượng, như thế hoàng thượng, chúa của hạ thần, mới có thể ấm được.” Vậy họ phái người đi tìm một thiếu nữ xinh đẹp trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, và tìm được A-bi-sắc, người Su-nem, rồi họ đem nàng đến cho vua. Người thiếu nữ này rất đẹp. Nàng trở thành người hầu hạ và săn sóc cho vua, nhưng vua không có ăn nằm với nàng. Bấy giờ hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai hoàng phi Ha-ghít, tự tôn mình lên rằng: “Ta sẽ làm vua.” A-đô-ni-gia sắm cho chàng các xe chiến mã, những người đánh xe, và năm mươi người chạy trước chàng. Cha chàng chẳng bao giờ trách cứ chàng một lời, mà hỏi rằng: “Tại sao con làm như thế?” Chàng lại là một thanh niên tuấn tú đẹp trai, sanh kế sau hoàng tử Áp-sa-lôm. Chàng bàn luận với Giô-áp con trai Xê-ru-gia và thầy tế lễ A-bia-tha. Họ đồng lòng ủng hộ A-đô-ni-gia. Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và các dũng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia. A-đô-ni-gia tổ chức một buổi lễ dâng các chiên, bò, và thú mập làm sinh tế trên một tảng đá ở Xô-hê-lết, gần Ên Rô-ghên. Chàng mời tất cả các hoàng tử, tức là các con trai của vua, và tất cả các vị quan trong triều đang ở Giu-đa; nhưng chàng không mời tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, và các dũng sĩ, và hoàng tử Sa-lô-môn, em chàng. Bấy giờ Na-than nói với Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn rằng: “Lẽ nào Bà không nghe hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã tự xưng làm vua mà chúa Đa-vít chúng ta không hay biết gì sao? Vậy bây giờ hãy lại đây để tôi bày kế cho, hầu có thể cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn, con trai bà. Hãy lập tức đi đến gặp vua Đa-vít và tâu với vua rằng: Tâu hoàng thượng: ‘Chẳng phải Ngài đã thề với tiện thiếp: Con trai ngươi là Sa-lô-môn chắc chắn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta sao? Thế mà sao bây giờ A-đô-ni-gia lại làm vua?’ Rồi đang khi bà còn ở đó tâu với vua thì tôi sẽ theo sau bà và xác nhận lời bà.” Thế là Bát-sê-ba đến gặp vua trong ngự phòng. Vua đã già yếu lắm. Có A-bi-sắc, người Su-nem đang hầu hạ vua. Bát-sê-ba sấp mình phủ phục trước mặt vua. Vua hỏi: “Ngươi muốn gì?” Bà tâu: “Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã có thề với tiện thiếp trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta. Nhưng bây giờ thình lình A-đô-ni-gia đã trở thành vua, mà hoàng thượng, chúa của tiện thiếp chưa hay biết gì cả. A-đô-ni-gia đã dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và thật nhiều chiên. Hoàng tử đã mời tất cả các hoàng tử khác, luôn cả thầy tế lễ A-bia-tha, quan Tổng Binh Giô-áp, nhưng tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn thì không được mời. Tâu hoàng thượng, mọi mắt của cả nước Y-sơ-ra-ên đang nhìn vào hoàng thượng chờ xem hoàng thượng bảo cho họ biết ai sẽ ngồi trên ngai để kế vị hoàng thượng. Nếu không, ngay khi hoàng thượng đã trở về an giấc cùng các tổ phụ mình, thì Sa-lô-môn con trai tiện thiếp và chính tiện thiếp sẽ bị xem như những kẻ có tội.” Đang khi bà còn tâu với vua thì tiên tri Na-than bước vào. Người ta tâu với vua: “Có tiên tri Na-than đến đây.” Khi tiên tri đến trước mặt vua, ông quỳ sấp mặt xuống đất bái kiến vua. Tiên tri Na-than tâu: “Bẩm hoàng thượng, chúa của hạ thần, có phải hoàng thượng đã nói rằng: ‘A-đô-ni-gia sẽ thay hoàng thượng để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta chăng?’ Vì hôm nay hoàng tử đã đi xuống dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và rất nhiều chiên. Hoàng tử cũng đã mời tất cả các con của hoàng thượng, quan Tổng Binh Giô-áp, và thầy tế lễ A-bia-tha. Bây giờ họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử và tung hô: ‘Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!’ Nhưng hoàng tử không có mời hạ thần, là tôi tớ của hoàng thượng, hay thầy tế lễ Xa-đốc, hay Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, hay tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn. Phải chăng việc này là do hoàng thượng, chúa của hạ thần, đã sắp đặt như vậy, mà hoàng thượng không muốn cho bầy tôi của hoàng thượng biết trước ai sẽ ngồi trên ngôi của hoàng thượng, chúa của hạ thần, để kế vị hoàng thượng chăng?” Sa-lô-môn Lên Ngôi Làm Vua Vua Đa-vít phán: “Hãy truyền Bát-sê-ba gặp ta.” Người ta đưa bà vào triều kiến vua, và bà đứng trước mặt vua. Vua thề rằng: “Nguyện CHÚA là Đấng hằng sống, Đấng đã giải cứu sinh mạng ta ra khỏi mọi nghịch cảnh, như ta đã thề với ngươi trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta thay thế cho ta.’ Ta sẽ thực hiện điều đó hôm nay.” Bát-sê-ba liền quỳ sấp mặt xuống đất, bái lạy vua và tâu: “Nguyện chúa của tiện thiếp là vua Đa-vít sống đời đời!” Vua Đa-vít phán: “Hãy triệu cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa.” Khi họ đến trước mặt vua, vua bảo họ: “Các ngươi hãy đem các tôi tớ của chúa các ngươi đi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, cưỡi trên con la của ta, rồi đem nó xuống Ghi-hôn. Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than hãy xức dầu nó làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Rồi các ngươi hãy thổi kèn và tung hô rằng: ‘Vua Sa-lô-môn vạn tuế!’ Sau đó các ngươi hãy theo nó đi lên. Hãy đưa nó vào triều và ngồi trên ngai ta. Nó sẽ làm vua thế cho ta. Vì ta có lập nó trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.” Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa tâu với vua: “A-men! Nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng, chúa của hạ thần, chuẩn y như vậy. Nguyện CHÚA là Đấng đã ở với hoàng thượng, chúa của hạ thần, cũng sẽ ở với Sa-lô-môn, và khiến cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước của vua Đa-vít, là chúa của hạ thần.” Vậy thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít đi xuống, đỡ Sa-lô-môn cỡi lên con la của vua Đa-vít và dẫn Sa-lô-môn đi xuống Ghi-hôn. Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng đựng dầu trong lều và xức dầu cho Sa-lô-môn. Rồi họ thổi kèn và mọi người reo lên: “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!” Tất cả dân chúng đều theo Sa-lô-môn đi lên, họ thổi sáo và reo mừng rất lớn đến nỗi đất rúng động vì tiếng reo hò của họ. A-đô-ni-gia và tất cả quan khách của chàng đều nghe tiếng reo hò đó nhằm lúc vừa mãn tiệc. Khi Giô-áp nghe tiếng kèn thì hỏi: “Tại sao trong thành náo nhiệt như vậy?” Khi ông còn đang nói thì Giô-na-than con trai thầy tế lễ A-bia-tha vừa đến. A-đô-ni-gia nói: “Hãy vào đây, ông là một người được kính trọng, thế nào ông cũng đem tin mừng.” Giô-na-than đáp lời A-đô-ni-gia: “Không đâu! Vì chúa của chúng ta là vua Đa-vít đã lập Sa-lô-môn làm vua rồi. Hoàng thượng đã sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, và họ đã đỡ Sa-lô-môn cỡi trên con la của vua. Thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn, và họ đã reo mừng mà đi lên; ấy chính là tiếng huyên náo trong thành. Đó là tiếng reo hò mà quý vị đã nghe. Sa-lô-môn bây giờ đang ngồi trên ngai vua. Hơn nữa các tôi tớ của hoàng thượng đã đến chúc mừng chúa của chúng ta là vua Đa-vít rằng: ‘Nguyện Đức Chúa Trời khiến cho danh của Sa-lô-môn nổi hơn danh hoàng thượng và ngôi nước của người trổi hơn ngôi nước của hoàng thượng.’ Nhà vua đã sấp mình xuống nơi long sàng để thờ lạy, và đã cầu nguyện như vầy: ‘Chúc tụng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng hôm nay đã cho con có một người ngồi trên ngôi của con và cho phép mắt con được chứng kiến điều này.’ ” Bấy giờ tất cả các quan khách của A-đô-ni-gia đều đứng dậy, run sợ và ai đi đường nấy. A-đô-ni-gia sợ hãi Sa-lô-môn, bèn đi lên nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. Người ta báo cáo cho Sa-lô-môn điều đó: “A-đô-ni-gia đang sợ vua Sa-lô-môn. Kìa, ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ và nói rằng: ‘Xin vua Sa-lô-môn thề với tôi hôm nay rằng vua sẽ không giết tôi tớ của vua bằng gươm.’ ” Vậy Sa-lô-môn đáp: “Nếu hắn chứng tỏ hắn là một con người xứng đáng, thì không một sợi tóc nào của hắn sẽ bị rơi xuống đất; nhưng kể từ nay nếu hắn có điều chi gian ác, thì hắn ắt phải chết.” Rồi vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia bèn đến bái phục vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn phán bảo: “Ngươi hãy về nhà của ngươi đi.” Đa-vít Khuyên Dặn Sa-lô-môn Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong Kinh Luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, hầu cho CHÚA sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’ Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc này, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ. Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con. Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh CHÚA mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.” Đa-vít Qua Đời Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng. Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?” A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.” Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc này đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi CHÚA mà thôi. Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.” Bà đáp: “Hãy nói đi.” A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.” Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.” Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua. Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.” Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.” Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.” Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc này cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.” Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh CHÚA mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu này. Vậy bây giờ, tôi nhân danh CHÚA hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết. Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của CHÚA Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt CHÚA nữa, hầu cho lời của CHÚA đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm. Khi tin này đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của CHÚA và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.” Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.” Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của CHÚA và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.” Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.” Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế này, và ông ấy đã đáp lại thế kia.” Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. CHÚA sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi CHÚA mãi mãi.” Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha. Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.” Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày. Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về. Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt CHÚA và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?” Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ CHÚA sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.” Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết. Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn. Sa-lô-môn Xin Chúa Sự Khôn Ngoan Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Vua cưới công chúa của Pha-ra-ôn rồi đưa nàng về thành Đa-vít, cho đến khi vua hoàn thành công trình xây cất cung điện cho mình, đền thờ cho CHÚA, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên dân chúng vẫn còn dâng tế lễ trong các đền miếu trên những nơi cao, vì đến bấy giờ vua vẫn chưa xây được đền thờ cho danh CHÚA. Sa-lô-môn kính mến CHÚA, bước đi theo những huấn lệnh của Đa-vít, thân phụ vua, ngoại trừ vua vẫn còn dâng tế lễ và đốt hương trong các đền miếu trên những nơi cao. Vua đi đến Ga-ba-ôn để dâng tế lễ, vì đó là ngôi đền trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn sinh tế làm tế lễ thiêu. Tại Ga-ba-ôn, ban đêm CHÚA hiện ra cùng Sa-lô-môn trong một giấc chiêm bao, Đức Chúa Trời phán rằng: “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.” Sa-lô-môn thưa: “Ngài đã lấy lòng nhân từ đối cùng tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung tín, công chính, và ngay thẳng trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay. Bây giờ, ôi lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, Ngài đã cho kẻ tôi tớ Ngài được làm vua thay thế cho Đa-vít, cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ, không biết phải điều khiển việc nước như thể nào. Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, là một dân lớn và thật đông đúc, không thể đếm hết được. Vậy xin Ngài ban cho kẻ tôi tớ Ngài một tâm trí khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai là người có thể trị vì một dân lớn của Ngài như thế này được?” CHÚA rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. Vậy Đức Chúa Trời phán với vua: “Bởi vì ngươi có xin điều này mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự khôn sáng để thi hành công lý. Này, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Này, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. Hơn nữa, Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi, không một vua nào có thể sánh bằng ngươi. Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và điều răn Ta, như Đa-vít cha ngươi đã làm, thì Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.” Rồi Sa-lô-môn thức giấc, và nhận biết rằng ấy là một giấc chiêm bao. Vua trở về Giê-ru-sa-lem, đứng trước Rương Giao Ước của CHÚA và dâng cho Ngài những tế lễ thiêu và tế lễ tạ ơn. Rồi vua mở một yến tiệc thiết đãi tất cả quần thần của mình. Vua Sa-lô-môn Xử Kiện Bấy giờ có hai người gái điếm đến đứng trước mặt vua. Một người nói: “Tâu chúa thượng, người đàn bà này và tôi sống chung với nhau một nhà. Tôi sinh được một con trai, trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có một người xa lạ nào khác. Ban đêm, con trai của chị ấy chết, bởi vì chị ngủ đè trên nó. Cho nên nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ mê, chị đến bế con trai tôi đang ở bên cạnh tôi đi. Chị đem cháu đặt vào lòng chị, rồi chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. Sáng hôm sau, tôi dậy cho con bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng đến khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, thì biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.” Người đàn bà kia nói: “Không! Đứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.” Nhưng người nọ nhất định: “Không! Đứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua. Vua phán: “Người này nói: ‘Con tôi là đứa sống còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói: ‘Không! Con chị là đứa chết còn con tôi là đứa sống.’ ” Rồi vua truyền: “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến cho vua một thanh gươm. Đoạn vua truyền lịnh: “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, rồi cho người này một nửa và cho người kia một nửa.” Người đàn bà có đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, liền tâu với vua: “Xin đừng, tâu chúa thượng. Hãy cho chị ấy đứa bé đi. Xin đừng giết nó!” Nhưng người kia nói: “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.” Bấy giờ vua phán quyết: “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Đừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.” Khi cả Y-sơ-ra-ên đã nghe phán quyết của vua, họ lấy làm kính phục vua, vì họ thấy rằng vua có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời để thi hành công lý. Quần Thần Của Vua Sa-lô-môn Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên. Sau đây là quần thần của vua: A-xa-ria, con trai của Xa-đốc, làm thầy tế lễ; Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, là hai thư ký; Giê-hô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm ngự sử; Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội; Xa-đốc và A-bia-tha, làm thầy tế lễ; A-xa-ria, con trai Na-than, chỉ huy các quan lại; Xa-bút, con trai Na-than, làm thầy tế lễ và cố vấn của vua; A-hi-sa, làm tổng quản hoàng cung; A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, đặc trách việc lao dịch. Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên, họ phụ trách cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. Đây là tên của họ: Con trai Hu-rơ, đặc trách vùng đồi núi Ép-ra-im. Con trai Đê-ke, đặc trách vùng Ma-cát, Sa-an-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lơn thuộc Bết Ha-nan. Con trai Hê-sết, đặc trách vùng A-ru-bốt, ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phê; Con trai A-bi-na-đáp, đặc trách toàn vùng cao nguyên Đô-rơ. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn. Ba-a-na, con trai A-hi-lút, đặc trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an, là xứ gần Xạt-han, phía dưới Ghít-rê-ên, và từ Bết Sê-an cho đến A-bên Mê-hô-la, chạy dài đến tận phía bên kia Giốc-mê-am. Con trai Ghê-be, ở Ra-mốt Ga-la-át, đặc trách các làng của Giai-rơ con trai Ma-na-se, trong miền Ga-la-át; ông cũng cai trị vùng Ạt-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng. A-hi-na-đáp, con trai I-đô, đặc trách vùng Ma-ha-na-im. A-hi-mát, đặc trách vùng Nép-ta-li. Ông cưới công chúa Bạch-mát, ái nữ của Sa-lô-môn, làm vợ. Ba-a-na, con trai Hu-sai, đặc trách vùng A-se và Bê-a-lốt. Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-ác, đặc trách vùng Y-sa-ca. Si-mê-i, con trai Ê-la, đặc trách vùng Bên-gia-min. Ghê-be, con trai U-ri, đặc trách vùng Ga-la-át, ngày trước là lãnh thổ của vua Si-hôn, người A-mô-rít, và vua Óc của Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị trên cả xứ này. Sự Huy Hoàng Của Triều Đại Sa-lô-môn Dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển. Họ ăn, uống, và vui sướng. Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ sông Ơ-phơ-rát đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ vua Sa-lô-môn trọn đời của vua. Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ ba mươi cô-ra bột mịn,4:22 Khoảng 6.60l sáu mươi cô-ra bột thô,4:22 Khoảng 13.20l mười con bò mập béo nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập. Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sắc đến Ga-xa; tất cả các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của vua, vua giao hảo thân thiện với tất cả các nước xung quanh. Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, sống an cư lạc nghiệp, ai nấy đều sống an lành dưới bóng cây nho và cây vả của mình. Vua Sa-lô-môn cũng có 40,000 chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã, do 12,000 kỵ binh điều khiển. Các quan trưởng từng vùng, cứ theo tháng đã định cho họ, cung cấp mọi thức ăn cho vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến nơi bàn của vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa và ngựa kéo các xe chiến mã theo số đã quy định cho họ. Sự Khôn Ngoan Của Sa-lô-môn Đức Chúa Trời ban cho vua Sa-lô-môn sự khôn ngoan, thông sáng, và một khả năng hiểu biết uyên bác vô kể như cát trên bờ biển vậy. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương Đông, trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than, người Ết-ra-hít; nhà vua khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của vua thật lẫy lừng trong các nước xung quanh. Vua nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. Vua luận giải về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-ban cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Vua luận giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. Thiên hạ từ mọi nước kéo đến lắng nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn. Các vua trên đất khi nghe nói về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn đều phái người đến triều kiến. Sa-lô-môn Chuẩn Bị Xây Cất Đền Thờ Khi Hi-ram vua Ty-rơ nghe rằng Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua kế vị vua cha là Đa-vít, vua bèn sai các sứ giả đến triều kiến Sa-lô-môn, vì vua là bạn của vua Đa-vít lúc sinh thời. Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram tâu rằng: “Vua chắc đã biết rằng vì chiến tranh giặc giã bao quanh tứ phía, nên thân phụ tôi không thể xây cất một đền thờ cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của người được cho đến khi CHÚA đã cho người đè bẹp các kẻ thù của người dưới chân. Nhưng bây giờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của tôi, đã ban cho tôi được bình an tứ phía, không còn quân nghịch và cũng chẳng có họa tai. Vậy nên tôi muốn xây cất một đền thờ cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của tôi, như CHÚA đã phán với Đa-vít, thân phụ tôi rằng: ‘Con trai ngươi, là kẻ Ta sẽ đặt trên ngôi kế vị ngươi, sẽ xây một đền thờ cho danh Ta.’ Vậy xin vua hãy ban lịnh cho đốn những cây bá hương ở Li-ban cho tôi. Người của tôi sẽ làm việc với người của vua. Tôi sẽ trả lương cho người của vua theo mức do vua ấn định. Vì vua cũng biết rằng chúng tôi không có ai thạo nghề đốn gỗ bằng người Si-đôn.” Khi Hi-ram nghe xong những lời ấy, vua rất đỗi vui mừng và nói: “Chúc tụng CHÚA, vì ngày nay Ngài đã ban cho Đa-vít một đứa con khôn ngoan để trị vì trên một nước lớn như thế này.” Vậy Hi-ram sai người đến nói với Sa-lô-môn: “Tôi đã nhận được sứ điệp vua đã sai người đến báo với tôi. Tôi sẽ làm cho vua mọi điều vua muốn về việc gỗ bá hương và gỗ tùng. Người của tôi sẽ di chuyển các gỗ đó từ Li-ban xuống biển, rồi tôi sẽ đóng bè và đưa đến nơi vua chỉ định. Tại đó tôi sẽ rã bè và vua sẽ lấy đi. Còn vua, xin vua hãy làm cho tôi điều tôi muốn, ấy là cung cấp lương thực cho cả triều đình của tôi.” Như thế Hi-ram cung cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ tùng vua muốn. Còn Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram hai mươi ngàn cô-ra5:11 Khoảng 4,400kl lúa mì làm lương thực cho triều đình của người. Ngoài ra, vua còn cấp thêm cho Hi-ram hai mươi ngàn bát5:11 Khoảng 440kl dầu ô-liu nguyên chất nữa. Sa-lô-môn cung cấp như thế cho Hi-ram hằng năm. CHÚA ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã phán với vua. Giữa Hi-ram và Sa-lô-môn có mối giao hảo thân thiện với nhau, và hai vua kết ước với nhau. Vua Sa-lô-môn truyền cho cả dân Y-sơ-ra-ên đi dân công. Có 30,000 người đáp ứng. Vua phái họ thay phiên nhau đến Li-ban, mỗi tháng 10,000 người. Vậy họ ở Li-ban một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-gia chỉ huy lực lượng dân công này. Sa-lô-môn có 70,000 người khuân vác và 80,000 người đục đá trên núi. Ngoài ra còn có 3,300 người do vua bổ nhiệm để quản lý công trình xây cất và điều động nhân công. Theo lịnh vua, họ cho đục những tảng đá quý thành những phiến đá vuông vức và to lớn để làm nền đền thờ. Những thợ khéo của Sa-lô-môn và Hi-ram, cùng với người Ghi-bê đốn gỗ và đục đá chuẩn bị cho việc xây cất đền thờ. Xây Cất Đền Thờ Vào năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, tức là năm thứ tư của triều đại Sa-lô-môn trị vì trên dân Y-sơ-ra-ên, vào tháng Di, tức là tháng thứ hai, vua bắt đầu xây cất đền thờ cho CHÚA. Ngôi đền mà vua Sa-lô-môn xây cất cho CHÚA có chiều dài sáu mươi am-ma, chiều rộng hai mươi am-ma, và chiều cao ba mươi am-ma.6:2 khoảng 30m, 10m, 15m Tiền đình ở phía trước chính điện của đền thờ có chiều dài hai mươi am-ma, theo chiều rộng của đền thờ, và rộng mười am-ma,6:3 khoảng 10m x 5m nối theo chiều dài của đền thờ. Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho đền thờ. Dọc theo tường quanh chính điện và Nơi Chí Thánh vua xây các tầng lầu với nhiều dãy phòng. Tầng dưới rộng năm am-ma, tầng giữa rộng sáu am-ma, và tầng thứ ba rộng bảy am-ma.6:6 khoảng 2.5m x 3m x 3.5m Vua cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách nhưng không đâm vào vách của đền thờ. Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên đang khi xây cất không ai nghe tiếng búa, đục, hay một dụng cụ bằng sắt nào cả. Lối vào tầng dưới nằm về hông phía nam của đền thờ. Người ta dùng một thang hình xoắn ốc đi lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. Vậy vua xây cất đền thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Vua đóng trần đền thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. Vua cũng xây các phòng dọc theo tường đền thờ. Mỗi phòng cao năm am-ma.6:10 2.5m Những phòng ấy dính liền với đền thờ bằng những cây đà gỗ bá hương. Có lời của CHÚA phán với Sa-lô-môn rằng: “Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất đây, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta và vâng theo chúng, thì Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, trên đời sống ngươi. Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ Y-sơ-ra-ên, dân Ta.” Vậy Sa-lô-môn xây cất đền thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Bài Trí Bên Trong Đền Thờ Vua dùng ván bá hương lát tường trong đền thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của đền thờ thì vua lát bằng ván gỗ tùng. Vua dùng ván bá hương ngăn hai mươi am-ma6:16 khoảng 10m phía trong của đền thờ, từ nền cho đến trần, thành một Nơi Cực Thánh, và gọi là Nơi Chí Thánh. Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài bốn mươi am-ma.6:17 khoảng 20m Tường bên trong của đền thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá. Vua cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong đền thờ để đặt Rương Giao Ước của CHÚA tại đó. Nơi Chí Thánh đó dài hai mươi am-ma, rộng hai mươi am-ma, và cao hai mươi am-ma.6:20 khoảng 10m x 10m x 10m Vua dát toàn Nơi Chí Thánh này bằng vàng ròng. Vua cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương. Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong của đền thờ. Vua cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. Vậy vua dát vàng toàn cả phía trong của đền thờ cho đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Vua cũng dát vàng bàn thờ để trong Nơi Chí Thánh. Trong Nơi Chí Thánh, vua làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp cao mười am-ma. Một cánh của chê-rúp dài năm am-ma, cánh kia cũng dài năm am-ma; vậy từ đầu cánh này đến đầu cánh kia là mười am-ma.6:24 khoảng 5m Chê-rúp thứ hai cũng đo được mười am-ma. Vì hai chê-ru-bim đều giống nhau về cả kích thước lẫn hình dạng. Chiều cao của một chê-rúp là mười am-ma; chê-rúp thứ hai cũng vậy. Vua đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh giang ra này vào Nơi Chí Thánh của đền thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường này, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại thì chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. Vua dát cả hai chê-ru-bim bằng vàng. Trên tường chung quanh đền thờ, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở, cả trong Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh. Vua cũng dát vàng mặt nền của đền thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh. Lối vào Nơi Chí Thánh, vua làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở. Vua dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây kè bằng vàng cán mỏng. Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, vua làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. Vua cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa này có hai cánh xoay trên bản lề và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. Vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm đều vào những đường nét đã chạm. Vua cũng xây cất sân trong của đền thờ với ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật và một hàng xà ngang bằng gỗ bá hương. Năm thứ tư, vào tháng Di, nền đền thờ của CHÚA được khai móng. Năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng tám, công trình xây cất đền thờ được hoàn tất đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Vua mất bảy năm mới xây cất xong đền thờ. Sa-lô-môn Xây Cung Điện Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho mình. Vua hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm. Vua xây cung điện Rừng Li-ban. Cung điện ấy dài một trăm am-ma, rộng năm mươi am-ma, và cao ba mươi am-ma.7:2 khoảng 50m x 25m x 15m Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thì thành một bộ. Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện nhau, và cứ ba cửa thì thành một bộ. Vua cũng xây một hành lang bằng cột, hành lang ấy dài năm mươi am-ma, rộng ba mươi am-ma.7:6 Khoảng 25m x 15m Phía trước hành lang là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên. Vua cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, là nơi vua xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần. Còn cung thất là nơi vua ở thì nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho công chúa Pha-ra-ôn, mà vua đã cưới làm vợ. Tất cả các cung điện này đều được xây bằng đá quý; các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn, cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng tám am-ma và dài mười am-ma.7:10 khoảng 4m x 5m Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước và gỗ bá hương. Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội sảnh của đền thờ CHÚA và tiền đình của đền thờ. Hu-ram, Người Thợ Đồng Tài Giỏi Vua Sa-lô-môn sai người mời Hu-ram ở Ty-rơ về. Ông là con một góa phụ thuộc bộ tộc Nép-ta-li, cha ông là một người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hu-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông. Các Trụ Đồng Của Đền Thờ Hu-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ mười tám am-ma; chu vi mỗi trụ là mười hai am-ma,7:15 khoảng 9m, 6m nếu lấy dây mà đo. Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ này là năm am-ma, chiều cao của đầu trụ kia cũng năm am-ma. Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ, lưới ấy do những dây chuyền đồng kết lại, các dây chuyền này được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ này và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. Hu-ram cũng đúc hai hàng trái thạch lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ, lớn bốn am-ma. Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới bằng đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái thạch lựu, gắn quanh đầu trụ. Rồi ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của đền thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin, ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-ách. Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất. Bể Nước Bằng Đồng Hu-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là mười am-ma; bể nước này cao năm am-ma, với chu vi là ba mươi am-ma7:23 khoảng 5m, 2.5m, 15m nếu lấy dây mà đo. Ông cũng cho đúc hai hàng hình các trái bầu quanh mép bể, cứ một am-ma là mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt với khi đúc bể. Bể nước bằng đồng này được đặt trên lưng mười hai con bò đứng quay đuôi vào nhau. Ba con nhìn về hướng bắc, ba con nhìn về hướng tây, ba con nhìn về hướng nam, và ba con nhìn về hướng đông. Thành bể dày bằng bề ngang của mặt bàn tay, và mép bể giống như mép chén có hình hoa huệ. Bể này chứa được hai ngàn bát nước.7:26 Khoảng 44,000l Các Xe Bằng Đồng Hu-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe dài bốn am-ma, rộng bốn am-ma, và cao ba am-ma.7:27 Khoảng 2m x 2m x 1.5m Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có những tấm đồng gắn vào khung. Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung đó có chạm hình các sư tử, các bò đực, và chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực lại chạm khắc những tràng hoa. Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái chân trụ để chịu đựng sức nặng đặt trên xe. Bốn chân trụ này được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các chân ấy có chạm khắc hình các tràng hoa. Trên mặt xe là một khung tròn làm đế, khung này lồi lên một am-ma, và lõm xuống một am-ma rưỡi.7:31 Khoảng 0.5m, 0.75m Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt của thành khung được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. Dưới các tấm đồng trên thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao một am-ma rưỡi. Các bánh xe này cũng được làm giống như bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc cả. Ở bốn góc xe, dưới bốn chân trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. Trên mặt xe cũng có một niền tròn, cao một nửa am-ma. Thành của niền và chân của nó được đúc liền với mặt xe. Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm khắc các hình chê-ru-bim, sư tử và cây chà là. Còn nơi nào có chỗ trống thì ông chạm khắc các tràng hoa chung quanh. Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu. Đoạn ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được bốn mươi bát.7:38 Khoảng 880l Mỗi bồn như thế cao bốn am-ma. Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe đó, mỗi xe một bồn nước. Xong ông để năm xe ở phía nam của đền thờ và năm xe ở phía bắc của đền thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của đền thờ. Vật Dụng Trong Đền Thờ Hu-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hu-ram hoàn tất mọi công tác vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà CHÚA, gồm: hai trụ đồng, hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng, các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ, bốn trăm trái thạch lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ, mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe, một bể nước, và mười hai con bò chịu bên dưới bể nước, các nồi, vá và chậu. Tất cả các vật này Hu-ram làm cho nhà CHÚA do vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. Vua cho làm những vật này tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xác-than. Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng nhiều quá, và số lượng đồng thì không tính nổi. Sa-lô-môn cũng làm các khí dụng cho nhà CHÚA gồm: bàn thờ bằng vàng, bàn bánh trần thiết bằng vàng, các chân đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái, trước Nơi Chí Thánh. Vua cũng cho làm các hoa, đèn, và kẹp gắp đều bằng vàng. Các chén, kéo cắt tim đèn, chậu, khay đựng tro, khay đựng than đều bằng vàng ròng. Các bộ bản lề các cửa vào phía trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả. Vậy vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình vua muốn làm cho nhà CHÚA. Sa-lô-môn đem vào đền thờ những vật mà Đa-vít, cha vua, đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Vua để các vật ấy trong các kho của nhà CHÚA. Rước Rương Giao Ước Vào Đền Thờ Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và các trưởng gia tộc trong Y-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít ở Si-ôn đến đền thờ. Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại trước mặt vua Sa-lô-môn để dự lễ. Khi tất cả các trưởng lão đến, các thầy tế lễ khiêng rương đi. Vậy những thầy tế lễ và những người Lê-vi khiêng rương của CHÚA, Lều Tạm là nơi diện kiến với CHÚA, và tất cả các vật dụng thánh trong Lều Tạm được đem đi. Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, tức là những người đã nhóm họp trước mặt vua, hiệp cùng với vua đến trước rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến độ không thể đếm được. Rồi các thầy tế lễ thỉnh Rương Giao Ước của CHÚA đặt vào vị trí, ở phía bên trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra bên trên rương; các chê-ru-bim che phủ rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng này khá dài đến nỗi ở Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh người ta có thể trông thấy được đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. Trong rương không có gì khác ngoài hai bảng bằng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, là nơi CHÚA đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập. Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh, thì có một đám mây bao phủ đền thờ của CHÚA, đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục thi hành nghi lễ vì mây bao phủ và vì vinh hiển của CHÚA đầy dẫy khắp đền thờ của CHÚA. Bấy giờ Sa-lô-môn nói: “CHÚA đã phán rằng Ngài ngự trong mây dày đặc. Con đã xây cho Ngài một ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.” Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân Chúng Đoạn vua quay lại và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. Vua nói: “Chúc tụng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dùng tay Ngài làm ứng nghiệm mọi điều Ngài đã hứa với Đa-vít, cha ta. Ngài có phán rằng: ‘Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một nhà cho Ta, hầu cho danh Ta sẽ ngự tại đó, nhưng Ta đã chọn Đa-vít để trị vì dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ Đa-vít, cha ta, có ý định xây cất một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng CHÚA có phán với Đa-vít, cha ta rằng: ‘Ngươi có ý tốt khi muốn xây cất một ngôi đền cho danh Ta; dầu vậy ngươi sẽ không xây đền ấy cho Ta đâu, bèn là con trai ngươi, do ngươi sinh ra, sẽ xây đền ấy cho danh Ta.’ Bây giờ CHÚA đã làm thành những lời Ngài đã hứa, vì ta đã kế vị Đa-vít, cha ta; ta ngồi trên ngai của Y-sơ-ra-ên, như CHÚA đã hứa, và ta cũng đã xây một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây này ta đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có chứa đựng giao ước của CHÚA, mà Ngài đã hứa với các tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.” Sa-lô-môn Cầu Nguyện Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời và cầu nguyện rằng: “Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp này. Ngài giữ giao ước và tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài là những người bước đi cách hết lòng trước mặt Ngài. Ngài đã giữ giao ước Ngài phán với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Ngài đã hứa thì ngày nay cánh tay Ngài đã thực hiện. Giờ đây, lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu một kẻ kế vị ngươi để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận giữ đúng đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ Vậy nên, lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện lời này mà Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Nhưng Đức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa Ngài được thay, huống chi là ngôi đền con xây cất cho Ngài đây. Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin đoái nghe lời cầu xin và khẩn nguyện mà tôi tớ Ngài xin dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. Nguyện mắt Ngài đêm ngày đoái xem ngôi đền này, là nơi Ngài đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để Ngài nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây cầu khẩn. Xin Ngài lắng nghe lời cầu xin của tôi tớ Ngài và của con dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện. Từ chốn thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và tha thứ cho. Khi có ai phạm tội nghịch lại người lân cận mình, và người ta bắt kẻ ấy phải thề; nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong ngôi đền này, thì từ chốn thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động và phân xử các tôi tớ Ngài; xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu chịu lấy hậu quả tội lỗi mình; và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho họ vì sự vô tội của họ. Khi dân Y-sơ-ra-ên Ngài có phạm tội nghịch lại Ngài, rồi bị quân thù đánh bại, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, tuyên xưng danh Ngài, cầu nguyện và khẩn xin Ngài trong ngôi đền này, thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ về lại xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ. Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ có phạm tội nghịch lại Ngài, nhưng rồi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi, vì đã bị Ngài sửa phạt, thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, là dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt mà họ phải đi và ban mưa xuống xứ mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp. Khi trong xứ có đói kém, khi họ gặp phải dịch lệ, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù có vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị dịch lệ nào, bất cứ họ bị bịnh tật gì, và có cá nhân nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình mà giơ tay ra hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, nài xin, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả cho mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ; vì chỉ một mình Ngài mới biết rõ mọi sự trong lòng mỗi người mà thôi; hầu cho họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời mình và sẽ sống trong xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ. Ngoài ra, khi có người ngoại quốc nào, là người không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên Ngài, từ một xứ xa đến vì nghe uy danh Ngài— vì người ta sẽ nghe đại danh của Ngài, cánh tay quyền năng của Ngài, và cánh tay Ngài đã giang ra—khi có một người ngoại quốc đến, hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, và nhậm mọi lời cầu nguyện người ngoại quốc đó đã cầu xin với Ngài, hầu cho mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên Ngài đã làm vậy, và thiên hạ sẽ biết rằng danh của Ngài được kêu cầu nơi đền này, là đền mà con đã xây. Khi dân Ngài phải ra chiến trận đánh đuổi quân thù, dù họ đang ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, và khi dân Ngài hướng về thành này là thành Ngài đã chọn và ngôi đền con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện với CHÚA, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ. Khi họ phạm tội cùng Ngài—vì chẳng ai là không phạm tội—và Ngài giận họ, phó họ cho quân thù, chúng bắt họ lưu đày trong xứ của kẻ thù nghịch, dù xa hay gần; nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày họ biết hồi tâm sửa đổi, họ ăn năn và kêu cầu với Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đi lưu đày, mà rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai trật, chúng con đã làm điều gian ác.’ Nếu họ hết lòng hết linh hồn ăn năn cùng Ngài trong xứ của kẻ thù, là những kẻ bắt họ đi lưu đày, nếu họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về ngôi đền mà con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ; xin Ngài tha thứ cho dân Ngài mọi tội lỗi và mọi vi phạm mà họ đã phạm đối với Ngài; xin Ngài khiến những kẻ đang bắt họ lưu đày tỏ lòng thương xót họ; vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp của Ngài, là những kẻ Ngài đã đem ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung chảy sắt. Cầu xin mắt Ngài đoái xem lời cầu xin của tôi tớ Ngài, và lời cầu xin của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, xin Ngài lắng nghe họ khi họ kêu cầu Ngài. Vì Ngài đã biệt riêng họ ra khỏi mọi dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã hứa cùng Môi-se, tôi tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy CHÚA là Đấng Chủ Tể Tuyệt Đối.” Vua Sa-lô-môn Chúc Phước Cho Dân Khi Sa-lô-môn đã dâng lời cầu nguyện này và những lời cầu xin này lên CHÚA xong, vua đứng dậy trước bàn thờ của CHÚA, là nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. Vua đứng dậy, cất tiếng lớn chúc phước cho toàn hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: “Chúc tụng CHÚA, là Đấng ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã hứa. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp mà Ngài đã cậy Môi-se, tôi tớ Ngài, nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. Nguyện xin CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta, như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. Nguyện lòng của chúng ta luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. Nguyện những lời của ta đã cầu nguyện trước mặt CHÚA sẽ ở bên cạnh CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày; để cho mọi dân tộc trên đất sẽ biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, không có một chân thần nào khác. Vậy, các ngươi khá hết lòng tận trung với CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ của Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài, y như đã làm ngày nay.” Lễ Cung Hiến Đền Thờ Rồi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên đang hiệp với vua dâng các sinh tế lên trước mặt CHÚA. Sa-lô-môn dâng cho CHÚA 22,000 con bò và 120,000 con chiên làm tế lễ tạ ơn. Vậy vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên CHÚA. Ngày hôm đó, vua biệt riêng khu vực ở giữa sân trước đền thờ của CHÚA làm nơi dâng các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn. Vậy, lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên có mặt với vua mừng lễ trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta bảy ngày. Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai-cập. Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua, rồi trở về trại mình, tinh thần vui mừng phấn khởi, vì mọi điều tốt đẹp mà CHÚA đã làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài và cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài. CHÚA Hiện Ra Với Sa-lô-môn Lần Thứ Nhì Khi Sa-lô-môn đã xây dựng đền thờ cho CHÚA, cung điện hoàng gia và những dinh thự mà vua muốn xây cất xong, thì CHÚA hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với vua tại Ga-ba-ôn. CHÚA phán với vua rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, là những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh ngôi đền mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại nơi đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ hằng ở đó luôn luôn. Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Đa-vít cha ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi trên Y-sơ-ra-ên được vững vàng đến đời đời, như Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, rằng: ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’ Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay khỏi Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng đi phục vụ và thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ dứt bỏ Y-sơ-ra-ên khỏi xứ mà Ta đã ban cho họ; Ta sẽ loại bỏ ngôi đền mà Ta đã biệt ra thánh cho danh Ta, và dân Y-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và trò giễu cợt giữa các dân. Ngôi đền này sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn; những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng: ‘Tại sao CHÚA đã làm điều ấy cho xứ này và cho dân này?’ Rồi người ta sẽ đáp rằng: ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên CHÚA đã khiến tai vạ này đến trên họ.’ ” Cuối hai mươi năm, là thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức là đền thờ cho CHÚA và cung điện hoàng gia, vì vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tuỳ ý vua muốn, nên vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. Nhưng khi Hi-ram đến Ty-rơ để quan sát các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, thì vua ấy chẳng hài lòng. Hi-ram nói: “Những thành mà vua cho tôi là những thành gì vậy, thưa vua?” Vậy họ gọi xứ đó là Ca-bun cho đến ngày nay. Dầu vậy Hi-ram cũng gởi cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng. Các Hoạt Động Khác Của Sa-lô-môn Đây là ký thuật về việc cưỡng bách lao động mà vua Sa-lô-môn đã trưng dụng dân công để xây đền cho CHÚA, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, Ghê-xe (Pha-ra-ôn là vua của Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa đốt thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn. Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại thành Ghê-xe), phần dưới của thành Bết Hô-rôn, Ba-lát, Tát-mốt trong đồng hoang, thuộc địa phận của vua, và tất cả những thành làm kho tiếp liệu, những thành cho đạo quân có các xe chiến mã, những thành cho kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất, ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-ban, và trong mọi xứ dưới vương quyền của vua. Tất cả những người còn sót lại của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, tức là những người không phải dân Y-sơ-ra-ên. Họ là con cháu của những người mà dân Y-sơ-ra-ên không thể tuyệt diệt, còn sót lại trong xứ. Sa-lô-môn bắt những người ấy làm nô dịch để cung cấp nhân công lao động, và họ làm như vậy cho đến ngày nay. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thì Sa-lô-môn không bắt ai làm nô lệ. Họ là quân lính, quan quyền, tướng lãnh, sĩ quan, và những người chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã và kỵ binh. Sau đây là số quan chức mà Sa-lô-môn đặt lên để cai quản những người thực hiện các công trình xây cất của vua: năm trăm năm mươi người. Sau khi công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít dọn lên ở trong cung điện mà Sa-lô-môn đã xây cất cho nàng, vua bèn cho xây cất các công sự phòng thủ. Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trên bàn thờ mà vua đã xây cho CHÚA, vua dâng hương trước mặt CHÚA. Như vậy, vua đã hoàn tất công trình xây cất đền thờ. Hoạt Động Thương Mại Của Sa-lô-môn Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lốt, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. Hi-ram sai các tôi tớ và đoàn tàu của mình, tức những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi cùng các tôi tớ của Sa-lô-môn. Họ đến Ô-phia và đem về bốn trăm hai mươi ta-lâng vàng, rồi đem giao nộp cho Vua Sa-lô-môn. Nữ Hoàng Sê-ba Thăm Sa-lô-môn Khi nữ hoàng của Sê-ba nghe danh tiếng của Sa-lô-môn, là danh có được nhờ danh CHÚA, thì bà đến để thử tài vua, bằng những câu hỏi hóc búa. Nữ hoàng đến Giê-ru-sa-lem với một đoàn tùy tùng rất đông, có những lạc đà chở các hương liệu, rất nhiều vàng, và các loại đá quý. Khi đến gặp Sa-lô-môn, bà nói cho vua nghe những gì bà đã suy nghĩ trong lòng. Sa-lô-môn giải đáp tất cả các câu hỏi của bà. Chẳng có điều gì là bí ẩn mà vua không giải nghĩa cho bà được. Khi nữ hoàng của Sê-ba đã chứng kiến tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, thức ăn trên bàn vua, dinh thự của quần thần, cơ cấu tổ chức các quần thần và y phục của họ, các quan dâng thức uống cho vua, và các tế lễ thiêu vua dâng trong đền thờ CHÚA, thì bà hết hồn. Bà nói với vua: “Những gì tôi nghe nói trong xứ của tôi về các công việc và sự khôn ngoan của vua đều là thật, nhưng tôi không tin những điều ấy cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt. Những điều tôi nghe chỉ là một nửa. Sự khôn ngoan và giàu sang của vua thật vượt quá những gì tôi đã nghe. Phước hạnh thay cho các vợ của vua! Phước hạnh thay cho bầy tôi của vua, là những người thuộc về vua thường xuyên hầu hạ trước mặt vua và được nghe sự khôn ngoan của vua! Chúc tụng CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, là Đấng đã hài lòng nơi vua và đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Vì CHÚA yêu thương Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua, để thi hành công lý và lẽ công chính.” Rồi bà tặng vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng, rất nhiều hương liệu và đá quý. Chưa bao giờ có ai đem hương liệu đến nhiều như số hương liệu của nữ hoàng Sê-ba đã tặng cho vua Sa-lô-môn. Ngoài ra, đoàn tàu của Hi-ram, đem vàng từ Ô-phia về, cũng chở theo rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. Vua lấy các gỗ đàn hương đó làm cột trong đền của CHÚA, trong cung điện hoàng gia, làm đàn lia và đàn hạc cho các ca sĩ. Ngày nay, thứ gỗ đàn hương đó không ai đem đến và cũng không còn thấy nữa. Trong khi đó, vua Sa-lô-môn cũng tặng cho nữ vương Sê-ba bất cứ điều gì bà thích, ngoài những gì vua đã tặng cho nữ vương Sê-ba theo sự giàu sang vương giả của mình. Đoạn bà và đoàn tùy tùng của bà lên đường trở về nước của bà. Sự Giàu Sang Của Vua Sa-lô-môn Số vàng mà vua Sa-lô-môn thâu nhận hàng năm cân nặng khoảng sáu trăm sáu mươi sáu ta-lâng,10:14 20,500kg ngoài số lợi tức thu được từ những thương gia và những người buôn bán đổi chác, và từ tất cả các vua Ả-rập và các quan trưởng của các tỉnh đem nộp. Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần sáu trăm bê-ka vàng.10:16 3.5kg Vua cũng cho làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ hơn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần ba mi-na vàng.10:17 1.7kg Rồi vua cho đặt những thuẫn đó trong cung Rừng Li-ban. Vua cũng cho làm một chiếc ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. Chiếc ngai có sáu cấp. Phần cao nhất của ngai là chỗ dựa lưng có hình tròn, hai bên chỗ ngồi có chỗ gác tay, bên cạnh hai chỗ gác tay là hai con sư tử, cũng có mười hai con sư tử khác, mỗi con đứng ở mỗi đầu của sáu cấp. Chưa hề có vương quốc nào làm như vậy. Tất cả các ly chén vua dùng để uống đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong cung Rừng Li-ban đều bằng vàng ròng. Không có món chi làm bằng bạc. Vì trong thời của Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. Vì nhà vua có một đoàn tàu Ta-rê-si đi biển với đoàn tàu của Hi-ram. Cứ ba năm đoàn tàu Ta-rê-si ấy trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, khỉ và công. Vì thế vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua trên đất về giàu có và khôn ngoan. Thiên hạ đều mong được diện kiến Sa-lô-môn, để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã ban cho tâm trí vua. Ai đến cũng đem theo lễ vật; nào là các vật bằng bạc, bằng vàng, quần áo, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa; cứ thế hết năm này qua năm khác. Sa-lô-môn cũng thâu thập các xe chiến mã và ngựa. Vua có 1,400 xe chiến mã và 12,000 con ngựa. Vua giữ các xe chiến mã trong những thành của các đạo quân có các xe chiến mã gần bên vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm cho bạc trở nên tầm thường như sỏi đá và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung ở các chân đồi. Sa-lô-môn cho mua ngựa từ Ai-cập và Cơ-ve về. Những người thương nhân của vua đến tận Cơ-ve trả giá mua về. Một xe chiến mã mua từ Ai-cập giá gần sáu trăm sê-ken bạc,10:29 7kg còn một con ngựa giá khoảng một trăm rưởi.10:29 1.7kg Rồi các thương gia của hoàng gia đem bán lại cho các vua của dân Hê-tít và các vua của dân A-ram. Các Lầm Lỗi Của Sa-lô-môn Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn yêu nhiều phụ nữ ngoại quốc khác; ấy là các phụ nữ người Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít. Họ thuộc về các dân mà CHÚA đã truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Các ngươi không được cưới gả với chúng, vì chắc chắn chúng sẽ khiến cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng.” Nhưng Sa-lô-môn yêu say mê các phụ nữ ấy. Vua có bảy trăm vợ là các công chúa và ba trăm cung phi. Các vợ của vua đã làm cho lòng vua chuyển hướng sai lạc. Khi vua về già, các vợ của vua đã khiến cho lòng vua ngả theo các thần của họ; lòng vua không còn trung thành với CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, như lòng của Đa-vít, cha vua đã có. Vì Sa-lô-môn đi theo Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Minh-côm, thần gớm ghiếc của dân Am-môn. Vậy Sa-lô-môn làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA, không trung thành đi theo CHÚA, như phụ vương của vua đã làm. Khi ấy Sa-lô-môn cũng xây một miếu thờ cho Kê-mốt, là thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, một miếu thờ cho Mo-lóc, là thần gớm ghiếc của dân Am-môn, trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem. Vua cũng làm như vậy cho tất cả các bà vợ ngoại quốc của vua. Họ dâng hương và dâng sinh tế cho các thần của họ. Bấy giờ CHÚA nổi giận với Sa-lô-môn, vì lòng vua đã xây bỏ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã hiện ra cho vua hai lần, đã truyền cho vua chớ theo các thần khác, nhưng vua không vâng theo mạng lịnh CHÚA đã truyền. Bấy giờ CHÚA phán với Sa-lô-môn: “Vì ngươi đã làm điều này, không vâng giữ giao ước và luật lệ Ta đã truyền cho ngươi, Ta chắc chắn sẽ phân chia vương quốc của ngươi ra và ban cho tôi tớ ngươi. Nhưng vì cớ Đa-vít, cha ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi; Ta chắc chắn sẽ xé nó ra trong tay của con trai ngươi. Tuy nhiên, Ta sẽ không xé cả vương quốc, nhưng sẽ để dành lại cho con trai ngươi một chi phái, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta và vì cớ Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn.” Những Người Chống Sa-lô-môn CHÚA bèn dấy lên một người nghịch lại Sa-lô-môn, đó là Ha-đát, người Ê-đôm. Người ấy thuộc hoàng tộc của dân Ê-đôm. Số là khi Đa-vít ở Ê-đôm, thì Giô-áp, quan tổng binh, đi lên chôn xác những người chết, ông diệt mọi người nam ở Ê-đôm. Vì Giô-áp và tất cả những người Y-sơ-ra-ên đi theo ông đã ở lại đó sáu tháng, cho đến khi họ diệt hết mọi người nam trong Ê-đôm. Nhưng Ha-đát với một số người Ê-đôm, là tôi tớ của cha ông, chạy trốn qua Ai-cập. Khi ấy ông chỉ là một cậu bé. Họ chạy từ Ma-đi-an đến Pha-ran, đoạn họ bắt một số người Ma-đi-an theo mình, rồi đi đến Ai-cập, vào ra mắt Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập. Vua ấy cấp cho ông nhà ở, thực phẩm và ruộng đất. Ha-đát được ơn lớn trước mặt Pha-ra-ôn, nên vua gả em vợ cho ông, tức là em gái của hoàng hậu Tác-bê-ne. Em gái của Tác-bê-ne sinh cho ông một con trai, tên là Ghê-nu-bát. Đó là đứa con được dứt sữa trong cung điện của Pha-ra-ôn. Ghê-nu-bát lớn lên giữa cung điện của Pha-ra-ôn, và giữa các con của Pha-ra-ôn. Khi Ha-đát ở Ai-cập nghe tin Đa-vít đã về an giấc cùng các tổ phụ của mình, và Giô-áp, quan Tổng Binh của vua đã chết, thì Ha-đát đến xin Pha-ra-ôn: “Xin vua cho phép tôi trở về quê hương của tôi.” Nhưng Pha-ra-ôn đáp với ông: “Ngươi ở với ta có thiếu gì sao mà nay lại muốn trở về xứ sở của ngươi?” Ông đáp: “Thưa không thiếu chi hết. Nhưng xin vua hãy cho phép tôi đi.” Đức Chúa Trời cũng dấy lên một người chống nghịch khác, người ấy là Rê-xôn, con trai của Ê-li-gia-đa; Rê-xôn là người đã bỏ chủ mình là vua Ha-đa-rê-xe của xứ Xô-ba để trốn thoát. Khi vua của Xô-ba bị Đa-vít đánh bại, thì Rê-xôn thu nhận một số người theo mình và làm thủ lãnh của đám tàn quân đó. Họ kéo chạy đến Đa-mách, chiếm lấy thành ấy, rồi ông tự tôn làm vua ở Đa-mách. Suốt thời của Sa-lô-môn, Rê-xôn luôn luôn là kẻ chống nghịch Y-sơ-ra-ên, ngoài sự quấy nhiễu của Ha-đát đã có. Ông chống nghịch Y-sơ-ra-ên và cai trị vùng A-ram. Giê-rô-bô-am Nổi Loạn Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, người Ép-ra-im, ở Xê-rê-đa, là một tôi tớ của Sa-lô-môn; mẹ ông là một góa phụ, tên là Xê-ru-ha; ông nổi lên chống lại vua. Sau đây là lý do tại sao ông nổi lên chống lại vua. Sa-lô-môn xây dựng các công sự phòng thủ, xây lại những chỗ đã hỏng quanh tường thành Đa-vít, là thành của phụ thân vua. Thấy Giê-rô-bô-am là người trẻ, có khả năng và chăm chỉ, Sa-lô-môn bèn lập ông lên chỉ huy lực lượng dân công của bộ tộc Giô-sép. Cũng độ ấy, khi Giê-rô-bô-am vừa ra khỏi Giê-ru-sa-lem, thì tiên tri A-hi-gia, người Si-lô, đón gặp ông giữa đường. A-hi-gia đang mặc một chiếc áo choàng mới. Trong lúc chỉ có hai người đang ở ngoài đồng, A-hi-gia lấy chiếc áo choàng mới đang mặc xé ra làm mười hai mảnh. Đoạn ông nói với Giê-rô-bô-am: “Hãy lấy mười mảnh cho ông. CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vậy: ‘Này, Ta sắp xé vương quốc từ tay của Sa-lô-môn và ban cho ngươi mười bộ tộc. Nhưng vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, và vì cớ Giê-ru-sa-lem là thành Ta đã chọn trong tất cả các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ giữ lại cho nó một bộ tộc. Bởi vì nó đã lìa bỏ Ta, thờ phượng Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần của dân Mô-áp, và Minh-côm, thần của dân Am-môn. Nó đã không đi theo các đường lối Ta, không làm những việc ngay lành trước mắt Ta, không giữ những luật lệ và mạng lịnh của Ta như Đa-vít, cha nó, đã làm. Dù vậy, Ta sẽ không cất cả vương quốc khỏi nó, nhưng sẽ cho nó được trị vì trọn đời nó, vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, người Ta đã chọn, và là kẻ đã vâng giữ các điều răn và luật lệ của Ta; nhưng Ta sẽ cất vương quốc khỏi con nó và ban cho ngươi mười bộ tộc. Còn con trai nó thì Ta sẽ cho một bộ tộc, hầu cho tôi tớ Ta là Đa-vít có thể luôn có một ngọn đèn trước mặt Ta tại Giê-ru-sa-lem, là thành Ta đã chọn để đặt danh Ta. Ta sẽ lập ngươi và ngươi sẽ trị vì trên tất cả, như lòng ngươi muốn. Ngươi sẽ làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Nếu ngươi nghe theo mọi điều Ta truyền cho ngươi, đi trong các đường lối Ta, làm điều công chính trước mắt Ta bằng cách vâng giữ các luật lệ và các điều răn Ta, như Đa-vít, tôi tớ Ta đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ lập cho nhà ngươi được vững bền, như Ta đã lập cho Đa-vít, và Ta sẽ ban Y-sơ-ra-ên cho ngươi. Như thế Ta sẽ sửa phạt các con cháu của Đa-vít, nhưng không phải mãi mãi đâu.’ ” Biết vậy Sa-lô-môn liền tìm cách giết Giê-rô-bô-am; nhưng Giê-rô-bô-am vội vàng chạy trốn qua Ai-cập, đến với vua Si-sắc của Ai-cập, và cứ ở mãi tại Ai-cập cho đến khi Sa-lô-môn băng hà. Sa-lô-môn Băng Hà Các việc khác của Sa-lô-môn, tất cả những gì vua làm, và sự khôn ngoan của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Sa-lô-môn sao? Thời gian Sa-lô-môn trị vì tại Giê-ru-sa-lem trên toàn dân Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong thành của Đa-vít, cha vua. Rô-bô-am, con trai vua, lên ngôi kế vị. Các Chi Tộc Phía Bắc Tách Ra Rô-bô-am đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đã đến Si-chem để lập ông lên làm vua. Khi Giê-rô-bô-am con của Nê-bát nghe điều đó, vì khi ấy ông còn ở Ai-cập, là nơi ông đã trốn khỏi Sa-lô-môn, thì ông từ Ai-cập trở về. Người ta phái người đến mời ông đến. Vậy Giê-rô-bô-am và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đến nói với Rô-bô-am: “Phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi một ách nặng nề. Vậy bây giờ xin vua hãy làm nhẹ bớt lao dịch nặng nhọc của phụ vương vua và ách nặng nề mà phụ vương vua đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục vụ vua.” Rô-bô-am đáp với họ: “Hãy về đi, ba ngày sau hãy trở lại gặp ta.” Vậy dân chúng ra về. Bấy giờ vua Rô-bô-am họp các đại thần cao niên, là những người đã phục vụ dưới triều của Sa-lô-môn, cha vua, khi tiên vương còn sống. Vua hỏi: “Các ngươi bảo ta phải trả lời với dân này thế nào đây?” Họ tâu với vua: “Nếu ngày nay vua quyết định làm đầy tớ cho dân này và phục vụ họ, dùng lời tử tế nhã nhặn đối đáp với họ, thì họ sẽ làm tôi của vua mãi mãi.” Nhưng vua chẳng coi những lời khuyên của các đại thần cao niên ra gì. Vua bàn luận với những người trẻ, là những người lớn lên đồng thời với mình, và đang phục vụ vua. Vua hỏi họ: “Các ngươi bảo chúng ta phải trả lời thế nào với dân này, là những người đã nói với ta rằng: ‘Xin hãy làm cho nhẹ bớt cái ách mà phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi?’ ” Những người trẻ lớn lên đồng thời với vua tâu: “Xin vua hãy nói với dân này, là những người đã nói với vua: ‘Phụ vương của vua đã bắt chúng tôi mang một ách nặng nề, bây giờ xin vua hãy làm cho ách chúng tôi được nhẹ bớt,’ thì vua hãy nói với họ rằng, ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn cái lưng của cha ta.’ Này, nếu cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, thì ta sẽ chất thêm ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” Vậy ngày thứ ba Giê-rô-bô-am và toàn dân đến gặp Rô-bô-am, như lời vua đã nói: “Ba ngày sau hãy đến gặp ta.” Vua đáp lời dân chúng cách xẳng xớm. Vua chẳng màng gì đến những lời khuyên của các đại thần cao niên. Vua đáp với họ theo lời khuyên của những người trẻ: “Cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, ta sẽ chất thêm cho ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” Vậy vua chẳng nghe theo lời của dân, bởi vì đó là việc CHÚA khiến xảy ra, để làm ứng nghiệm lời của Ngài, mà Chúa đã cậy A-hi-gia, người ở Si-lô, nói với Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy vua không nghe theo họ, thì dân chúng nói với vua: “Chúng ta nào có phần gì với Đa-vít? Chúng ta nào có hưởng được gì với con cháu của Y-sai. Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về trại mình. Hỡi Đa-vít, từ nay khá giữ lấy nhà của ngươi.” Vậy dân Y-sơ-ra-ên trở về trại của họ. Nhưng Rô-bô-am trị vì trên những người Y-sơ-ra-ên đang cư ngụ trong các thành ở Giu-đa. Khi vua Rô-bô-am sai A-đô-ram, quan chỉ huy việc cưỡng bách lao động, đến với dân chúng, thì dân Y-sơ-ra-ên ném đá ông chết. Vua Rô-bô-am liền vội vàng lên xe chạy trốn về Giê-ru-sa-lem. Vậy Y-sơ-ra-ên đã làm loạn nghịch lại nhà Đa-vít cho đến ngày nay. Giê-rô-bô-am Trị Vì Y-sơ-ra-ên Khi cả dân Y-sơ-ra-ên nghe rằng Giê-rô-bô-am đã trở về, thì họ cho người mời ông đến với hội chúng và lập ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Không một ai đi theo nhà Đa-vít, ngoại trừ bộ tộc Giu-đa mà thôi. Tiên Tri Sê-ma-gia Khi Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem, vua liền triệu tập toàn thể nhà Giu-đa và bộ tộc Bên-gia-min, được 180,000 tinh binh, để đánh lại nhà Y-sơ-ra-ên, nhằm tái lập vương quốc dưới quyền Rô-bô-am là con của Sa-lô-môn. Nhưng có lời của Đức Chúa Trời đến với Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời, rằng: “Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn, vua Giu-đa nói cùng toàn thể nhà Giu-đa, Bên-gia-min và toàn thể dân chúng: CHÚA phán như vầy: Các ngươi không được đi lên đánh anh em của các ngươi là dân Y-sơ-ra-ên. Mọi người hãy về nhà mình, vì việc này do Ta mà đến.’ ” Vậy họ nghe theo lời của CHÚA và trở về lại nhà mình, theo như lời của CHÚA đã dạy bảo. Giê-rô-bô-am Lập Tượng Hai Bò Con Bằng Vàng Khi ấy Giê-rô-bô-am xây cất thành Si-chem, trong miền đồi núi Ép-ra-im, và ở tại đó. Rồi từ đó vua đi ra xây cất thành Phê-nu-ên. Đoạn Giê-rô-bô-am tự nhủ: “Như thế này thì vương quốc sẽ trở về lại với nhà Đa-vít thôi. Vì nếu dân này cứ tiếp tục lên Giê-ru-sa-lem để dâng tế lễ trong đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, thì lòng dân sẽ quay về với vua của họ là Rô-bô-am của Giu-đa. Họ sẽ giết ta và quay về với vua Rô-bô-am của Giu-đa.” Vậy vua bàn luận và cho làm hai con bò con bằng vàng. Vua nói với dân chúng: “Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem chi cho xa xôi. Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là các thần của các ngươi, là các thần đã đưa các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.” Vua đặt một con ở Bê-tên và con kia ở Đan. Điều này đã trở thành một tội lỗi. Vì dân chúng đi đến tận Đan để thờ phượng trước con bò con ấy. Vua cũng cho xây các đền miếu trên những nơi cao và bổ nhiệm các thầy tế lễ, là những người từ mọi thành phần trong dân, chứ không phải là các con cháu Lê-vi Giê-rô-bô-am lập một ngày lễ, vào ngày mười lăm tháng tám, giống như ngày lễ ở Giu-đa, rồi vua đến dâng các sinh tế trên bàn thờ. Vua làm điều ấy tại Bê-tên, dâng sinh tế cho con bò con mà vua đã làm nên. Vua cũng đặt tại Bê-tên các thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao mà vua đã xây cất. Vua đi đến bàn thờ mà vua đã xây tại Bê-tên vào ngày mười lăm tháng tám, tức là tháng mà chính vua đã tự ý chỉ định. Vua lập một ngày lễ cho dân Y-sơ-ra-ên, rồi vua lên trước bàn thờ mà dâng hương. Người Của Đức Chúa Trời Từ Giu-đa Đến Do lời CHÚA sai bảo, một người của Đức Chúa Trời đi từ Giu-đa đến Bê-tên, nhằm lúc Giê-rô-bô-am đang đứng cạnh bàn thờ để dâng hương. Theo lời CHÚA sai bảo, người ấy la lên chống lại bàn thờ rằng: “Hỡi bàn thờ! Bàn thờ! CHÚA phán như vầy: ‘Một con trai tên Giô-si-a sẽ được sinh ra cho nhà Đa-vít. Người ấy sẽ dâng trên ngươi sinh tế là những thầy tế lễ của các đền miếu trên những nơi cao, tức những kẻ đã dâng hương cho ngươi, và xương người sẽ được thiêu đốt trên ngươi.’ ” Trong ngày ấy, người của Đức Chúa Trời cho một dấu lạ, mà rằng: “Đây là dấu lạ để chỉ rằng CHÚA đã phán bảo: ‘Bàn thờ sẽ bị nứt ra, và tro trên bàn thờ sẽ bị đổ xuống.’ ” Khi vua nghe người của Đức Chúa Trời la lên chống lại bàn thờ ở Bê-tên, thì vua Giê-rô-bô-am từ bàn thờ giơ tay ra truyền: “Hãy bắt nó!” Nhưng cánh tay giơ ra chỉ vào người ấy liền bị khô cứng, không co lại được nữa. Bàn thờ nứt ra, và tro trên bàn thờ đổ xuống, đúng y như dấu lạ mà người của Đức Chúa Trời đã vâng theo lời CHÚA truyền bảo. Vua bèn nói với người của Đức Chúa Trời: “Bây giờ xin ông làm ơn cầu thay với CHÚA là Đức Chúa Trời của ông, xin ông cầu nguyện cho tôi để tay tôi được phục hồi trở lại.” Vậy người của Đức Chúa Trời cầu thay với CHÚA, và cánh tay của vua được phục hồi như trước. Đoạn vua nói với người của Đức Chúa Trời: “Xin mời ông đến nhà tôi dùng bữa và tôi có món quà xin tặng ông.” Nhưng người của Đức Chúa Trời nói với vua: “Dù vua có cho tôi đến nửa nước tôi cũng không đi với vua, tôi sẽ không ăn bánh hoặc uống nước ở nơi này. Vì lời CHÚA đã truyền bảo tôi như thế: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’ ” Vậy người ấy ra về bằng con đường khác, không trở lại con đường mà người ấy đã đến Bê-tên. Vị Tiên Tri Già Ở Bê-tên Thuở ấy cũng có một vị tiên tri già đang sống tại Bê-tên. Các con trai của cụ về thuật lại cho cụ nghe mọi điều người của Đức Chúa Trời đã làm ngày hôm ấy tại Bê-tên; luôn cả những lời người ấy đã nói với vua, họ đều thuật lại cho cha họ nghe hết thảy. Cha họ bảo họ: “Ông ấy đi đường nào?” Các con cụ chỉ cho cụ con đường mà người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đang trở về. Cụ bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ và cụ lên cỡi. Cụ đuổi theo người của Đức Chúa Trời và bắt kịp người ấy đang ngồi nghỉ dưới gốc cây sồi. Cụ hỏi: “Có phải ông là người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đấy chăng?” Người ấy đáp: “Thưa chính tôi.” Cụ nói: “Hãy về nhà với tôi và ăn chút bánh.” Nhưng người ấy đáp: “Tôi không thể trở lại với cụ được. Tôi cũng không thể ăn bánh hay uống nước với cụ ở nơi này. Vì lời CHÚA đã truyền cho tôi rằng: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’ ” Bấy giờ cụ nói: “Tôi cũng là một tiên tri như ông. Một thiên sứ đã phán với tôi lời của CHÚA rằng: ‘Hãy đem người ấy trở lại với ngươi, về nhà ngươi, để người ấy ăn bánh và uống nước.’ ” Nhưng cụ chỉ nói gạt ông ấy thôi. Thế là người của Đức Chúa Trời trở lại với cụ, ăn bánh và uống nước trong nhà cụ. Đang khi họ ngồi ở bàn ăn thì có lời của CHÚA đến với vị tiên tri đã đưa người kia trở lại. Cụ nói lớn với người của Đức Chúa Trời đã đến từ Giu-đa rằng: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì ngươi đã bất tuân lời CHÚA, không vâng giữ mạng lịnh mà CHÚA là Đức Chúa Trời của ngươi đã truyền cho ngươi. Ngươi đã đi trở lại, ăn bánh và uống nước trong nơi mà Ngài đã bảo ngươi: ‘Không được ăn bánh và không được uống nước,’ cho nên thây của ngươi sẽ không được nằm chung trong hang mộ của tổ phụ ngươi.” Sau khi người của Đức Chúa Trời dùng bữa xong, họ thắng con lừa của cụ tiên tri đã đem ông trở lại để ông cỡi đi về. Ông ra đi chẳng bao lâu thì có một con sư tử ra đón ông ở dọc đường, giết chết ông, bỏ xác ông nằm bên đường; con lừa vẫn đứng bên cạnh, cả con sư tử cũng đứng bên xác chết nữa. Có người đi ngang qua đó thấy xác người nằm bên đường, với con sư tử đứng bên cạnh, thì đi vào trong thành, là nơi cụ tiên tri già cư ngụ, thuật lại cho mọi người hay. Khi vị tiên tri già là người đã đem vị tiên tri kia trở lại nghe thế thì bảo: “Đó là người của Đức Chúa Trời đã bất tuân lời CHÚA. Cho nên CHÚA đã phó ông ấy cho sư tử, sư tử đã vồ và giết chết ông ta y theo lời của CHÚA đã truyền cho ông.” Cụ liền bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ. Cụ ra đi và thấy xác người chết bên đường, với con lừa và con sư tử đứng bên cạnh. Con sư tử không ăn xác người chết và cũng không cắn xé con lừa. Vị tiên tri già lấy xác của người Đức Chúa Trời, đặt trên lưng lừa, rồi đem về thành mình, để than khóc và chôn cất. Cụ đặt xác người ấy vào hang mộ của chính mình. Người ta than khóc vị tiên tri ấy. Cụ khóc rằng: “Than ôi, người anh em hỡi!” Sau khi chôn cất người ấy, cụ nói với các con mình: “Khi cha chết, các con hãy chôn cha trong hang mộ mà người của Đức Chúa Trời đã được chôn. Hãy để hài cốt cha nằm bên cạnh hài cốt người ấy. Vì những lời người ấy vâng lịnh CHÚA nói nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên, và nghịch lại các đền miếu trên những nơi cao trong các thành ở Sa-ma-ri, chắc chắn sẽ xảy ra.” Tội Trọng Của Giê-rô-bô-am Sau việc đó, Giê-rô-bô-am cũng không xây bỏ đường lối tội lỗi của mình, nhưng cứ tiếp tục bổ nhiệm những người từ mọi thành phần trong dân làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. Hễ ai muốn làm thầy tế lễ thì vua phong làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. Việc này đã trở thành một tội trọng của nhà Giê-rô-bô-am, khiến cho họ sụp đổ và bị tuyệt diệt khỏi mặt đất. Sự Đoán Phạt Nhà Giê-rô-bô-am Khi ấy A-bi-gia, con trai của Giê-rô-bô-am bị bịnh, Giê-rô-bô-am nói với vợ: “Bây giờ, bà hãy cải trang, để người ta không biết bà là vợ của Giê-rô-bô-am, rồi bà hãy đi đến Si-lô. Tiên tri A-hi-gia đang ở đó. Ông ấy là người đã nói trước cho tôi biết rằng tôi sẽ làm vua của dân này. Bà hãy lấy mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, và một hũ mật, rồi đi đến đó gặp ông ta. Ông ấy sẽ nói cho bà biết chuyện gì sẽ xảy đến cho con mình.” Vậy vợ của Giê-rô-bô-am làm y như lời của chồng bà bảo. Bà chỗi dậy, đi đến Si-lô, vào nhà của A-hi-gia. Lúc ấy cụ A-hi-gia không thấy được nữa, mắt cụ đã lòa, vì cớ tuổi già. Nhưng CHÚA phán với cụ A-hi-gia: “Vợ của Giê-rô-bô-am đang đến để gặp ngươi đó. Bởi vì con nó đang bị bịnh. Ngươi hãy nói với nó thể này.” Khi vợ của Giê-rô-bô-am đến, bà cải trang làm một người khác. Nhưng khi nghe tiếng chân bà vừa bước vô cửa thì cụ nói: “Vào đây, hỡi vợ của Giê-rô-bô-am. Tại sao bà lại cải trang làm một người khác? Tôi được lệnh báo cho bà một tin buồn. Hãy về, bảo Giê-rô-bô-am rằng: ‘CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã cất nhắc ngươi lên giữa vòng dân thường, lập ngươi làm lãnh tụ trên dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta đã xé vương quốc của nhà Đa-vít mà ban cho ngươi, nhưng ngươi không giống như Đa-vít, tôi tớ Ta, là người đã vâng giữ các điều răn Ta, theo Ta hết lòng, và làm những điều ngay lành trước mắt Ta. Ngươi đã làm điều tội ác hơn tất cả những người trước ngươi. Ngươi đã làm cho mình những thần khác, đúc tượng của chúng, chọc cho Ta giận, rồi vứt bỏ Ta ra sau lưng. Vậy nên, Ta sẽ giáng họa xuống trên nhà Giê-rô-bô-am. Ta sẽ dứt bỏ khỏi gia đình Giê-rô-bô-am mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên, dù tự do hay nô lệ. Ta sẽ thiêu hủy nhà Giê-rô-bô-am như người ta đốt phân, cho đến khi không còn lại gì nữa. Kẻ nào thuộc về gia đình Giê-rô-bô-am chết trong thành sẽ bị chó ăn, kẻ nào chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn. Vì CHÚA đã phán như vậy.’ Thôi, hãy đứng dậy mà về nhà ngươi đi. Khi ngươi bước chân vào thành thì con của ngươi sẽ chết. Mọi người trong Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc nó. Nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am sẽ được chôn cất đàng hoàng. Bởi vì nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am có chút gì đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ngoài ra, ngày nay CHÚA sẽ dấy lên một người khác để làm vua trên Y-sơ-ra-ên, là người sẽ tiêu diệt gia đình Giê-rô-bô-am. Chẳng lẽ ngay bây giờ sao? Quả thật, ngay bây giờ. CHÚA sẽ đánh phạt Y-sơ-ra-ên, như cây sậy bị dập vùi trong giòng nước. Ngài sẽ bứng gốc Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ tốt đẹp này, là xứ Ngài đã ban cho tổ phụ họ, và Ngài sẽ phân tán họ qua phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Bởi vì họ đã làm ra những trụ thờ nữ thần A-sê-ra, để chọc giận CHÚA. Ngài sẽ bỏ Y-sơ-ra-ên vì những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là những tội vua đã phạm và đã xui cho Y-sơ-ra-ên cùng phạm nữa.” Vậy vợ của Giê-rô-bô-am đứng dậy và đi về. Bà về đến Tiệt-sa. Khi bà vừa bước chân qua ngạch cửa thì đứa trẻ chết. Người ta chôn cất nó và toàn dân Y-sơ-ra-ên than khóc nó, đúng y như lời CHÚA đã phán qua tôi tớ Ngài là tiên tri A-hi-gia vậy. Những việc khác của Giê-rô-bô-am làm, những cuộc chiến vua tham dự, những đường lối vua trị vì, đều được chép trong sách Sử Ký của các vua Y-sơ-ra-ên. Giê-rô-bô-am trị vì được hai mươi hai năm; rồi vua an giấc cùng tổ phụ mình. Con trai vua là Na-đáp lên ngôi kế vị. Rô-bô-am Trị Vì Giu-đa Khi ấy Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn trị vì Giu-đa. Rô-bô-am được bốn mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành CHÚA đã chọn trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, để đặt danh Ngài tại đó. Mẹ của vua là bà Na-a-ma, người Am-môn. Giu-đa làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Do những tội lỗi họ đã phạm, họ chọc giận Ngài hơn tất cả những gì tổ phụ họ đã làm. Vì họ đã xây dựng cho mình các đền miếu trong những nơi cao, những trụ tượng bằng đá, những trụ thờ nữ thần trên mỗi đồi cao và dưới mỗi cây cổ thụ xanh rậm. Trong xứ cũng có những đàn ông làm điếm để phục vụ trong các đền miếu đó. Chúng làm mọi sự gớm ghiếc của các dân mà CHÚA đã đuổi đi trước dân Y-sơ-ra-ên. Trong năm thứ năm của triều đại vua Rô-bô-am, vua Si-sắc của Ai-cập lên đánh Giê-ru-sa-lem. Vua ấy chiếm đoạt tất cả kho tàng trong đền thờ CHÚA và kho tàng trong cung điện nhà vua. Vua ấy đem đi tất cả, luôn cả những chiếc khiên dát vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm. Vậy Rô-bô-am đã làm những khiên bằng đồng để thay thế; rồi vua giao các khiên ấy cho những vị quan chỉ huy đội quân thị vệ canh gác cổng hoàng cung. Mỗi khi vua đến đền thờ CHÚA, thì các thị vệ lấy các khiên ấy đi theo. Rồi sau đó họ đem đặt lại trong phòng của đội quân thị vệ. Các việc khác của Rô-bô-am và tất cả những gì vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am có chiến tranh với nhau luôn. Rô-bô-am an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Mẹ của vua tên là Na-a-ma, người Am-môn. A-bi-giam, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-bi-giam Trị Vì Giu-đa Vào năm thứ mười tám triều vua Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, A-bi-giam lên ngôi làm vua Giu-đa. A-bi-giam trị vì được ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm. Vua phạm mọi tội lỗi mà trước đây vua cha đã phạm. Lòng của vua không trọn thành theo CHÚA, như Đa-vít, tổ phụ của vua. Tuy nhiên, vì cớ Đa-vít, CHÚA là Đức Chúa Trời của vua ban cho vua một ngọn đèn ở Giê-ru-sa-lem, đặt con trai vua lên kế vị vua, và giữ cho Giê-ru-sa-lem đứng vững. Vì Đa-vít đã làm những điều ngay lành trước mặt CHÚA, ngoại trừ vụ U-ri người Hê-tít, thì suốt đời vua, vua không bỏ qua một điều nào trong các mạng lịnh mà CHÚA đã truyền cho vua. Cuộc chiến giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am vẫn tiếp diễn qua suốt triều đại của A-bi-giam. Những việc khác của A-bi-giam và mọi việc vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giữa A-bi-giam và Giê-rô-bô-am luôn có chiến tranh với nhau. A-bi-giam an giấc với các tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít. A-sa, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-sa Trị Vì Giu-đa Vào năm thứ hai mươi triều vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên, A-sa lên ngôi làm vua của Giu-đa. Vua trị vì bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội của vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm. A-sa làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, giống như Đa-vít, tổ phụ vua đã làm. Vua loại trừ những đàn ông làm điếm trong các đền miếu ra khỏi xứ, và dẹp bỏ tất cả những hình tượng mà cha ông của vua đã làm. Vua cũng cách chức quốc mẫu của bà nội vua là Ma-a-ca, bởi vì bà có dựng một trụ thờ đáng gớm ghiếc cho nữ thần A-sê-ra. A-sa cho đập ngã trụ thờ đó xuống và đem thiêu rụi trong thung lũng Kít-rôn. Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dầu vậy, lòng của A-sa luôn trọn thành với CHÚA suốt đời của vua. Vua đem vào trong đền thờ CHÚA những vật thánh của vua cha và của chính vua đã dâng; ấy là bạc, vàng và các khí cụ. Giữa A-sa và Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, luôn có chiến tranh suốt thời trị vì của hai vua. Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, lên đánh Giu-đa, xây đắp thành Ra-ma, để không cho ai ra vào nước Giu-đa của vua A-sa được. A-sa bèn lấy tất cả bạc và vàng còn lại trong đền thờ CHÚA và trong kho tàng hoàng gia trao cho các tôi tớ mình. Vua A-sa sai họ đến vua Bên Ha-đát, con của Táp-ri-môn, cháu Hê-xi-ôn, vua của A-ram, đang trị vì tại Đa-mách, mà nói rằng: “Xin lập một hiệp ước giữa tôi và vua, giống như giữa phụ thân tôi và phụ thân vua. Kìa, tôi gởi đến vua những lễ vật gồm bạc và vàng. Bây giờ xin vua hãy hủy bỏ hiệp ước giữa vua với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên đi, để hắn rút khỏi nơi tôi.” Bên Ha-đát nghe theo đề nghị của vua A-sa. Vua sai các tướng chỉ huy quân đội tiến đánh các thành của Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm được I-giôn, Đan, A-bên Bết Ma-ca, cả vùng Ki-nê-rết, và toàn địa phận của Nép-ta-li. Khi Ba-ê-sa nghe vậy, vua ngưng việc xây đắp Ra-ma mà rút về trấn thủ ở Tiệt-sa. Vua A-sa liền truyền lịnh cho mọi người ở Giu-đa, không trừ một ai, đến khiêng đi tất cả đá và gỗ mà Ba-ê-sa định dùng để xây đắp Ra-ma. Vua A-sa dùng các vật liệu đó mà xây dựng Ghê-ba trong đất Bên-gia-min và Mích-ba. Các công việc khác của A-sa, những thành quả của vua, mọi việc vua làm, những thành vua xây, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Khi vua về già, vua bị bịnh ở chân. Vua A-sa an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Giê-hô-sa-phát, con trai vua, lên ngôi kế vị. Na-đáp Trị Vì Y-sơ-ra-ên Na-đáp con trai Giê-rô-bô-am lên ngôi làm vua của Y-sơ-ra-ên vào năm thứ nhì của triều vua A-sa, vua Giu-đa. Na-đáp trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo đường lối của cha vua đã làm và đi trong tội lỗi cha vua đã phạm và gây cho cả Y-sơ-ra-ên phạm theo nữa. Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, thuộc bộ tộc I-sa-ca lập mưu làm phản vua. Trong khi Na-đáp và cả Y-sơ-ra-ên bao vây Ghi-bê-thôn, là thành thuộc dân Phi-li-tin, thì Ba-ê-sa đã hạ sát vua. Vậy Ba-ê-sa giết Na-đáp vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, và lên ngôi thế vị. Vừa khi lên ngôi xong, Ba-ê-sa ra lịnh tuyệt diệt mọi người trong gia đình Giê-rô-bô-am. Vua chẳng để trong dòng họ Giê-rô-bô-am một người nào sống sót, cho đến khi đã diệt hết, theo như lời CHÚA đã dùng tôi tớ Ngài là A-hi-gia, người Si-lô, phán trước. Bởi vì những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã phạm và đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo, và bởi vì vua đã chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Những việc khác của Na-đáp, và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Giữa A-sa và vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên luôn có chiến tranh với nhau suốt thời trị vì của họ. Ba-ê-sa Trị Vì Y-sơ-ra-ên Vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, Ba-ê-sa con trai A-hi-gia, bắt đầu trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-sa. Vua trị vì được hai mươi bốn năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong các đường lối của Giê-rô-bô-am, phạm tội lỗi vua ấy đã phạm và gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo. Giê-hu Nói Trước Về Sự Sụp Đổ Của Triều Đại Ba-ê-sa Có lời của CHÚA đến với Giê-hu, con trai Ha-na-ni nghịch lại Ba-ê-sa rằng: “Vì Ta đã cất nhắc ngươi lên từ bụi đất và lập ngươi làm lãnh tụ của dân Y-sơ-ra-ên Ta, nhưng ngươi lại đi trong con đường của Giê-rô-bô-am, đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên Ta phạm tội, chọc giận Ta bằng những tội lỗi của họ, vậy nên, Ta sẽ hủy diệt Ba-ê-sa và nhà người. Ta sẽ làm cho nhà ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát. Ai trong nhà Ba-ê-sa chết trong thành sẽ bị chó ăn, còn ai chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn.” Những việc khác của Ba-ê-sa, những thành đạt của vua, quyền thế của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Ba-ê-sa an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Tiệt-sa. Ê-la, con trai vua, lên ngôi kế vị. Lại có lời của CHÚA đến với tiên tri Giê-hu, con trai Ha-na-ni, nghịch lại Ba-ê-sa và nhà của vua, vì mọi điều tội lỗi mà vua đã phạm trước mặt CHÚA, chọc giận CHÚA bằng những việc vua làm, và trở nên giống như nhà Giê-rô-bô-am, và vì vua tiêu diệt nhà ấy. Ê-la Trị Vì Y-sơ-ra-ên Vào năm thứ hai mươi sáu triều vua A-sa của Giu-đa, Ê-la con trai Ba-ê-sa lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Ê-la trị vì tại Tiệt-sa được hai năm. Xim-ri, bầy tôi của vua, là quan chỉ huy một nửa đạo quân có các xe chiến mã của vua, đã lập mưu làm phản. Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa của Giu-đa, vua Ê-la đến nhà Ạt-sa, quan tổng quản hoàng cung tại Tiệt-sa, uống rượu và bị say khướt, Xim-ri đi vào, đánh hạ và giết chết vua; rồi lên ngôi thế vị. Vừa khi lên ngôi trị vì, vua Xim-ri giết tất cả mọi người trong nhà của Ba-ê-sa, chẳng chừa lại một người nam nào, dù là bà con hay bạn hữu. Như thế Xim-ri đã tiêu diệt mọi người trong gia tộc của Ba-ê-sa, theo như lời của CHÚA đã phán qua tiên tri Giê-hu. Ấy là vì tất cả tội lỗi của Ba-ê-sa và tội lỗi của Ê-la, con của vua, đã phạm và đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo, chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bằng sự thờ cúng những hình tượng vô dụng. Những việc của Ê-la và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Xim-ri Trị Vì Y-sơ-ra-ên Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa, vua Giu-đa, Xim-ri trị vì tại Tiệt-sa được bảy ngày. Lúc ấy quân Y-sơ-ra-ên đang bao vây Ghi-bê-thôn, thành của dân Phi-li-tin. Đang khi quân binh bao vây thành thì nghe tin Xim-ri đã làm phản và đã giết chết vua, cả Y-sơ-ra-ên liền lập Ôm-ri, quan Tổng Binh, lên làm vua Y-sơ-ra-ên. Ôm-ri và toàn quân Y-sơ-ra-ên bèn từ Ghi-bê-thôn kéo về bao vây Tiệt-sa. Khi vua Xim-ri thấy hoàng thành bị bao vây thì rút vào pháo đài của hoàng cung, rồi phóng hỏa đốt cả hoàng cung, và chết thiêu trong đó. Ấy là vì tội lỗi mà vua đã phạm, làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo con đường của Giê-rô-bô-am, chính vua đã phạm tội và gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo. Những việc khác của Xim-ri và cuộc phản loạn vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Ôm-ri Trị Vì Y-sơ-ra-ên Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên chia làm hai phe. Một phe ủng hộ Típ-ni, con trai Ghi-nát, và lập ông làm vua, còn phe kia ủng hộ Ôm-ri. Nhưng phe theo Ôm-ri mạnh hơn phe theo Típ-ni. Vậy Típ-ni chết và Ôm-ri làm vua. Năm thứ ba mươi mốt triều vua A-sa của Giu-đa, Ôm-ri lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì mười hai năm, trong đó sáu năm ở Tiệt-sa. Vua mua ngọn đồi Sa-ma-ri của Sê-me với giá hai ta-lâng bạc, rồi xây dựng tại đó thành một thành trì và đặt tên là Sa-ma-ri, theo tên chủ cũ của ngọn đồi. Ôm-ri làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua làm nhiều điều tội lỗi hơn những người trước mình. Người đi theo con đường của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và làm theo những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo, chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bằng sự thờ cúng hình tượng vô dụng. Những việc khác Ôm-ri làm, và những thành quả của người, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Ôm-ri an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Sa-ma-ri. A-háp, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-háp Trị Vì Y-sơ-ra-ên Vào năm thứ ba mươi tám triều vua A-sa của Giu-đa, A-háp, con trai Ôm-ri lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri hai mươi hai năm. A-háp con trai Ôm-ri làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA hơn tất cả những người trước vua. Vua cho việc làm theo những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là nhỏ, nên vua đi cưới Giê-sa-bên, con gái của Ếch-ba-anh, vua Si-đôn, làm vợ. Vua bắt đầu phục vụ Ba-anh và thờ lạy thần đó. A-háp xây một bàn thờ cho Ba-anh trong đền thờ Ba-anh mà vua đã xây cất tại Sa-ma-ri. A-háp cũng dựng một trụ thờ nữ thần A-sê-ra. A-háp làm nhiều điều tội lỗi và chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hơn tất cả các tiên vương trước vua. Trong thời của vua, Hi-ên ở Bê-tên, xây dựng lại thành Giê-ri-cô. Khi ông ấy bắt đầu xây móng thì A-bi-ram, con trưởng nam của ông qua đời, và khi ông dựng cổng thành thì Sê-gúp, con trai út của ông qua đời, đúng y như lời của CHÚA đã dùng Giô-suê, con trai của Nun, báo trước. Tiên Tri Ê-li Báo Trước Về Cơn Hạn Hán Khi ấy tiên tri Ê-li, người Thi-sê-be, ngụ tại Thi-sê-be, trong vùng Ga-la-át, đến nói với A-háp: “Tôi đứng trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của Y-sơ-ra-ên mà tuyên bố rằng: trong những năm tới sẽ không có sương hoặc mưa rơi xuống đất, trừ phi Ta tuyên bố trở lại.” Có lời của CHÚA đến với ông: “Hãy rời khỏi đây, đi về hướng đông, và ẩn mình trong khe Kê-rít, ở phía đông sông Giô-đanh. Ngươi sẽ uống nước trong khe, và Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi tại đó.” Vậy Ê-li đi và làm theo như lời CHÚA đã phán dạy. Ông đến sống tại khe Kê-rít, về phía đông sông Giô-đanh. Buổi sáng, các chim quạ mang bánh và thịt đến cho ông; chiều đến, chúng cũng mang bánh và thịt đến. Ông uống nước trong khe. Nhưng sau một thời gian, nước trong khe khô cạn, bởi vì trong xứ không có mưa. Góa Phụ Sa-rép-ta Bấy giờ, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy chỗi dậy, đi đến Sa-rép-ta, thuộc xứ Si-đôn, và hãy ở tại đó. Vì Ta đã truyền cho một góa phụ kia nuôi ngươi.” Vậy, ông đứng dậy, đi đến Sa-rép-ta. Khi ông đến cổng thành thì thấy một góa phụ đang lượm củi ở đó. Ông gọi bà lại và bảo: “Xin bà hãy lấy bình đem cho tôi một ít nước, để tôi uống.” Bà ấy vừa đi lấy nước, thì ông gọi giật bà lại và bảo: “Xin bà cũng hãy đem cho tôi một miếng bánh trong tay nữa.” Nhưng bà đáp: “Có CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ông làm chứng, tôi không có bánh. Tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ và một chút dầu trong vò. Tôi ra đây kiếm mấy khúc củi này, để về nhà, nấu cho tôi và con trai tôi ăn một bữa cuối cùng rồi chết.” Ê-li nói với bà: “Bà đừng sợ. Hãy đi làm như lời bà nói. Nhưng trước hết, hãy làm một cái bánh nhỏ, đem đến cho tôi, rồi sau đó, hãy làm cho bà và con trai bà. Vì có lời của CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Bột trong hũ sẽ không vơi, dầu trong vò sẽ không cạn, cho đến ngày CHÚA ban mưa xuống đất.” Bà đi và làm như lời tiên tri Ê-li đã nói. Vậy bà, tiên tri Ê-li, và gia đình bà có đủ ăn trong nhiều ngày. Bột không vơi trong hũ, dầu cũng không cạn trong vò, đúng y như lời của CHÚA đã cậy tiên tri Ê-li phán dạy. Tiên Tri Ê-li Cầu Xin Cho Con Trai Góa Phụ Sống Lại Sau đó ít lâu, đứa con trai của góa phụ chủ nhà đau nặng. Cơn bịnh của đứa trẻ trầm trọng đến độ nó tắt thở. Bà đến nói với Ê-li: “Hỡi người của Đức Chúa Trời. Ông đến để hại tôi chăng? Ông đến để nhắc lại tội lỗi tôi, khiến cho con tôi phải chết chăng?” Nhưng ông đáp với bà: “Hãy trao đứa con trai bà cho tôi.” Ông bồng lấy đứa trẻ từ lòng mẹ nó, đem nó lên phòng trên lầu, là nơi ông ở, rồi đặt đứa trẻ trên giường của ông. Đoạn ông kêu cầu với CHÚA: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con. Tại sao Ngài lại giáng họa trên người góa phụ này, là người đã cho con tá túc, mà nỡ để cho con nàng chết đi?” Rồi ông nằm sấp trên mình đứa trẻ ba lần, và kêu cầu với CHÚA: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con. Xin Ngài hãy cho linh hồn đứa trẻ trở lại trong thân xác nó.” CHÚA lắng nghe lời kêu cầu của Ê-li, linh hồn của đứa trẻ trở lại trong thân xác nó và nó sống lại. Ê-li bồng đứa trẻ, từ phòng trên lầu đi xuống nhà dưới, trao lại cho mẹ nó, và nói, “Bà hãy xem, con bà đang sống đây.” Bà nói với Ê-li: “Bây giờ tôi nhận biết ông là người của Đức Chúa Trời, và những lời của CHÚA từ miệng ông nói ra là chân thật.” Sứ Điệp Của Tiên Tri Ê-li Cho Vua A-háp Sau nhiều ngày, vào năm hạn hán thứ ba, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy đi gặp A-háp. Ta sẽ cho mưa xuống đất trở lại.” Vậy Ê-li đi đến gặp A-háp. Lúc ấy, nạn đói đang hoành hành tại Sa-ma-ri. A-háp gọi Áp-đia, quan tổng quản hoàng cung đến. Áp-đia rất kính sợ CHÚA. Khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA, thì Áp-đia có đem một trăm tiên tri đi giấu, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ. A-háp nói với Áp-đia: “Ngươi hãy đi khắp xứ, hãy đến các suối và các khe, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ để giữ cho ngựa và lừa sống, và chúng ta khỏi phải giết các súc vật của chúng ta hết chăng.” Vậy họ chia nhau đi khắp xứ. A-háp đi một hướng, còn Áp-đia đi một hướng khác. Đang khi Áp-đia đi đường thì Ê-li gặp ông. Áp-đia nhận ra ông, liền sấp mặt xuống đất, và hỏi: “Thưa có phải chúa tôi là Ê-li đây chăng?” Ông trả lời: “Chính tôi đây. Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.” Áp-đia đáp: “Tôi có tội tình gì mà ngài muốn trao tôi vào tay A-háp để giết tôi đi? Như CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ngài chứng giám, chẳng có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ tôi không sai người đến kiếm ngài. Khi người ta bảo rằng ngài không có ở đó, thì ông ấy đòi nước đó hoặc vương quốc đó phải thề là họ không có gặp ngài. Nhưng bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.’ Nhưng vừa khi tôi rời khỏi ngài thì Thần của CHÚA đem ngài đi đến nơi nào tôi không biết. Rồi khi tôi đến nói cho A-háp, ông ấy đến mà không thấy ngài, ông ấy chắc sẽ giết tôi đi, mặc dù tôi đây, là tôi tớ ngài, đã kính sợ CHÚA từ thuở nhỏ. Người ta há không nói cho chúa tôi biết rằng tôi đã làm gì khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA sao, thể nào tôi đã đem giấu một trăm tiên tri của CHÚA, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ sao? Bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây’, ông ấy chắc sẽ giết tôi.” Nhưng Ê-li đáp: “Có CHÚA Vạn Quân, là Đấng tôi phục vụ, chứng giám, chắc chắn hôm nay tôi muốn gặp chủ của ông.” Vậy Áp-đia đi gặp vua A-háp và báo cho vua biết. A-háp liền đi gặp Ê-li. Tiên Tri Ê-li Và Vua A-háp Khi A-háp thấy Ê-li, A-háp nói với ông: “Ngươi, kẻ gây rối cho Y-sơ-ra-ên, có phải ngươi đó chăng?” Ê-li đáp: “Không phải tôi gây rối cho Y-sơ-ra-ên, nhưng chính là vua và nhà cha vua. Vì vua và phụ vương của vua đã bỏ các điều răn của CHÚA, và vua lại đi theo các thần Ba-anh. Bây giờ xin vua hãy triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên lại gặp tôi ở núi Cạt-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của A-sê-ra, là những kẻ được Giê-sa-bên cấp dưỡng.” Ê-li Thắng Các Tiên Tri Ba-anh Vậy A-háp sai người đi khắp Y-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại núi Cạt-mên. Ê-li đến gần dân chúng và nói: “Các ngươi cứ lưỡng lự đi hàng hai cho đến chừng nào? Nếu CHÚA là Đức Chúa Trời thì hãy theo Ngài, còn nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời thì hãy theo hắn.” Nhưng dân chúng lặng thinh. Bấy giờ Ê-li nói với dân chúng: “Tôi, chỉ một mình tôi, là tiên tri của CHÚA còn sót lại; nhưng ở đây có bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh. Bây giờ hãy cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn một con cho họ trước đi. Hãy sả con bò ra từng mảnh, rồi chất trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ sả con bò kia, chất nó trên củi, nhưng cũng không châm lửa. Rồi các ông hãy kêu cầu danh thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh CHÚA. Vị thần nào đáp lời bằng lửa thì vị đó chính là Đức Chúa Trời.” Toàn thể dân chúng hiện diện nói: “Đề nghị rất hữu lý!” Bấy giờ Ê-li nói với các tiên tri của Ba-anh: “Các ông hãy chọn lấy cho mình một con bò và sả thịt nó trước đi, vì các ông đông người; rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được châm lửa đấy nhé.” Vậy họ bắt một con bò đực đem đến đó, sả thịt nó ra, rồi kêu cầu danh thần Ba-anh từ sáng đến trưa. Họ cầu rằng, “Lạy thần Ba-anh, xin hãy đáp lời chúng tôi.” Nhưng chẳng có tiếng nào, cũng chẳng có ai trả lời. Họ nhảy khập khiễng xung quanh bàn thờ họ đã dựng. Đến trưa Ê-li chế nhạo họ rằng: “Hãy kêu cầu lớn hơn chút nữa. Vì Ba-anh chính là thần đó mà. Có thể thần đang suy tư, hay bận đi đâu đó, hoặc đang trên đường, hay là thần đang ngủ, phải đánh thức thần dậy.” Nghe thế họ lại càng kêu cầu lớn hơn nữa, và theo như thói tục của họ, họ lấy gươm và giáo rạch mình đến chảy máu. Đến quá trưa, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri theo kiểu như thế cho đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, nhưng chẳng có tiếng nào đáp lại, cũng chẳng ai trả lời, và chẳng ai quan tâm đến. Bấy giờ Ê-li nói với toàn dân: “Hãy đến gần tôi.” Toàn dân kéo lại gần ông. Trước hết, ông sửa lại bàn thờ của CHÚA đã bị sụp đổ. Ê-li lấy mười hai phiến đá, theo số bộ tộc của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của CHÚA đã phán, “Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.” Ê-li dùng các phiến đá đó xây lại một bàn thờ cho danh CHÚA. Rồi ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ, rộng cỡ chứa được hai thúng hạt giống. Kế đến ông sắp củi trên bàn thờ. Đoạn ông sả con bò ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi. Xong ông bảo: “Hãy múc đầy bốn bình nước, rồi đem đổ trên tế lễ thiêu và củi.” Ông bảo họ: “Hãy làm lần thứ nhì.” Họ làm lần thứ nhì. Ông lại bảo họ: “Hãy làm lần thứ ba.” Họ làm lần thứ ba, đến nỗi nước chảy ướt đẫm xung quanh bàn thờ và đầy tràn cái mương. Đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, tiên tri Ê-li đến gần và cầu nguyện rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Y-sơ-ra-ên. Ngày hôm nay xin Ngài hãy cho thiên hạ biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, rằng con đây là đầy tớ Ngài, và con đã làm mọi sự này là do Ngài phán bảo. Lạy CHÚA, xin nhậm lời con, để dân này biết rằng chính Ngài, CHÚA ôi, là Đức Chúa Trời, và sẽ khiến lòng dân này quay trở lại.” Bấy giờ lửa của CHÚA giáng xuống, thiêu rụi tế lễ thiêu, củi, đá, bụi đất, và làm khô hết nước trong mương. Khi toàn dân thấy vậy, họ liền sấp mặt xuống đất và nói: “CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời! CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời!” Ê-li nói với họ: “Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh. Đừng để thoát một ai.” Họ liền bắt những người ấy. Ê-li đem họ xuống khe Kít-sôn và giết hết họ tại đó. Cơn Hạn Hán Chấm Dứt Ê-li nói với A-háp: “Xin mời vua đi lên, ăn và uống. Vì tôi nghe có tiếng mưa rào.” Vậy A-háp đi lên, ăn và uống. Ê-li đi lên đỉnh núi Cạt-mên. Tại đó, ông sấp mặt xuống đất, giữa hai đầu gối. Ông nói với người đầy tớ ông: “Hãy đi, nhìn về hướng biển.” Người ấy đi, nhìn, rồi trở lại nói: “Con chẳng thấy gì cả.” Ông bảo: “Hãy đi trở lại, và làm bảy lần như thế.” Lần thứ bảy người ấy nói: “Kìa, con thấy có một đám mây, cỡ bằng bàn tay, đang nổi lên ngoài biển.” Ông bảo: “Hãy đến nói với A-háp: ‘Xin vua hãy thắng xe và đi xuống mau, kẻo mưa sẽ giữ vua lại.’ ” Chẳng mấy chốc, mây đen kéo đến phủ khắp bầu trời và gió cuồn cuộn thổi. Một trận mưa lớn đổ xuống. A-háp vội vàng lên xe, chạy đến Gít-rê-ên. Tay của CHÚA đặt trên Ê-li. Ông thắt lưng và chạy trước xe A-háp, cho đến lúc vào thành Gít-rê-ên. Ê-li Chạy Trốn Khỏi Giê-sa-bên A-háp kể cho Giê-sa-bên mọi sự Ê-li đã làm, thể nào ông đã dùng gươm giết tất cả các tiên tri. Giê-sa-bên bèn sai một sứ giả đến nói với Ê-li rằng: “Nguyện các thần phạt ta cách nặng nề, nếu giờ này ngày mai, ta không khiến mạng ngươi giống như mạng một người trong các tiên tri mà ngươi đã giết.” Bấy giờ Ê-li sợ hãi. Ông đứng dậy, chạy trốn để cứu mạng. Ông đến Bê-e Sê-ba thuộc nước Giu-đa. Ông để đầy tớ ông lại đó. Còn ông, ông đi thêm bốn ngày, vào sâu trong đồng hoang. Ông đến ngồi dưới bóng một cây kim tước, và cầu xin được chết rằng: “Lạy CHÚA, con thấy đã đủ rồi. Bây giờ xin Ngài hãy cất lấy mạng sống con đi. Vì con không hơn gì các tổ phụ con.” Xong ông nằm dưới bóng cây kim tước kế đó và ngủ thiếp đi. Thình lình, một thiên sứ chạm vào người ông và bảo: “Hãy thức dậy và ăn.” Ông nhìn quanh và thấy cạnh đầu ông nằm có một cái bánh nướng trên đá nóng và một vò nước. Ông ăn bánh và uống nước, rồi nằm xuống ngủ tiếp. Thiên sứ của CHÚA đến lần thứ nhì, chạm vào người ông và nói: “Hãy thức dậy và ăn, vì đường còn xa lắm cho ngươi.” Ông thức dậy ăn và uống, rồi nhờ sức lực từ thức ăn đó, ông đi bộ bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, đến Hô-rếp, là núi của Đức Chúa Trời. Đến nơi, ông vào trú ẩn trong một cái hang, và qua đêm tại đó. Ê-li Gặp Chúa Tại Hô-rếp Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hỡi Ê-li, ngươi làm gì ở đây?” Ông đáp: “Con rất nhiệt thành về CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân; vì dân Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ giao ước Ngài, phá đổ các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết hại các tiên tri Ngài. Chỉ còn một mình con còn sót lại, mà bây giờ họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” Ngài phán: “Hãy đi ra và đứng trên núi trước mặt CHÚA, vì CHÚA sắp đi ngang qua.” Bấy giờ có một trận gió rất mạnh thổi qua, gió mạnh đến nỗi xẻ núi ra và làm vỡ đá ra từng mảnh trước mặt CHÚA, nhưng CHÚA không có trong trận gió. Sau trận gió là một cơn động đất, nhưng CHÚA cũng không có trong cơn động đất. Sau cơn động đất là một luồng lửa hực, nhưng CHÚA cũng không có trong luồng lửa hực đó. Sau luồng lửa hực có một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ. Khi Ê-li nghe tiếng đó, ông vội lấy áo choàng che mặt, chạy ra và đứng nơi miệng hang. Bấy giờ có một tiếng nói với ông: “Hỡi Ê-li, ngươi làm gì ở đây?” Ông đáp: “Con rất nhiệt thành về CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân; vì dân Y-sơ-ra-ên đã lìa bỏ giao ước Ngài, phá đổ các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết hại các tiên tri Ngài. Chỉ còn một mình con còn sót lại, mà bây giờ họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” CHÚA bèn phán với ông: “Hãy đi, hãy trở lại con đường ngươi đã đi, mà đến vùng đồng hoang Đa-mách. Khi đến nơi, ngươi hãy xức dầu cho Ha-xa-ên làm vua A-ram. Ngươi cũng hãy xức dầu cho Giê-hu, con trai Nim-si, làm vua Y-sơ-ra-ên; và ngươi cũng hãy xức dầu cho Ê-li-sê, con trai Sa-phát, ở A-bên Mê-hô-la, làm tiên tri thế cho ngươi. Ai thoát khỏi gươm của Ha-xa-ên, Giê-hu sẽ giết; ai thoát khỏi gươm của Giê-hu, Ê-li-sê sẽ giết. Còn Ta, Ta đã để dành cho Ta bảy ngàn người trong Y-sơ-ra-ên. Tất cả những người này chưa hề quỳ gối trước Ba-anh, và môi họ chưa hề hôn nó.” Ê-li-sê Làm Môn Đồ Của Ê-li Vậy Ê-li rời khỏi nơi đó và gặp Ê-li-sê, con trai Sa-phát, đang cày. Ông ấy có mười hai đôi bò đang cày trước mặt ông; chính ông đang cày đôi thứ mười hai. Ê-li đi ngang qua và quăng chiếc áo choàng của mình trên ông. Ông liền để đôi bò đó, chạy theo Ê-li và nói: “Xin thầy cho phép con về hôn chào từ giã cha và mẹ con, rồi con sẽ theo thầy.” Ê-li đáp: “Hãy đi, rồi trở lại. Thầy có làm gì anh đâu.” Ê-li-sê rời Ê-li trở về, bắt đôi bò đang cày làm thịt; ông chẻ cày làm củi để nấu thịt, rồi đãi mọi người ăn, và mọi người đều ăn. Xong rồi ông đứng dậy đi theo Ê-li, làm môn đồ phục vụ Ê-li. Chiến Tranh Với Dân A-ram Vua Bên Ha-đát của A-ram triệu tập tất cả quân đội của vua lại. Có ba mươi hai vua khác cùng hiệp với vua. Họ có nhiều chiến mã và xe chiến mã. Vua ấy kéo quân đến Sa-ma-ri, bao vây thành, và tấn công thành. Vua sai các sứ giả vào trong thành gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên và nói rằng: “Bên Ha-đát nói như vầy: Bạc và vàng của ngươi là của ta. Những người vợ đẹp nhất của ngươi và con cái của ngươi là của ta.” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lại: “Tâu vua, là chúa của tôi, thật đúng vậy. Bản thân tôi và mọi sự tôi có đều thuộc về vua.” Các sứ giả trở lại nữa và nói: “Bên Ha-đát nói như vầy: Ta sai sứ giả đến nói cho ngươi biết: ‘Hãy trao nộp cho ta bạc, vàng, các vợ và các con của ngươi. Ngoài ra, giờ này ngày mai, ta sẽ sai các tôi tớ ta đến với ngươi. Chúng sẽ lục soát nhà ngươi và nhà bầy tôi của ngươi, hễ bất cứ điều gì chúng thích, chúng sẽ lấy đem đi hết.’ ” Vua của Y-sơ-ra-ên bèn triệu tập tất cả các trưởng lão trong xứ lại và nói: “Các ngươi hãy xem đó. Kìa, người này đến để gây sự với chúng ta. Vì hắn đã sai sứ đến đòi ta phải nộp các vợ của ta, con cái của ta, bạc của ta và vàng của ta cho hắn, và ta đã không từ chối rồi.” Bấy giờ tất cả các trưởng lão và toàn dân nói: “Xin vua đừng nghe lời hắn và đừng chấp thuận gì cả.” Vậy A-háp trả lời cho các sứ giả của Bên Ha-đát rằng: “Hãy tâu với vua là chúa của tôi rằng: Tất cả những gì vua đòi hỏi nơi tôi lần thứ nhất, tôi xin tuân theo, nhưng lần này thì tôi không thể làm được.” Các sứ giả ra đi đem tin về cho Bên Ha-đát. Bên Ha-đát lại sai một sứ giả khác đến gặp A-háp và nói: “Nguyện các thần phạt ta cách nặng nề, nếu bụi đất ở Sa-ma-ri đủ cho mỗi người trong đại binh ta, mỗi người có một nắm trong tay.” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lại: “Hãy về nói với hắn: Đợi khi xong trận rồi hãy khoác lác.” Khi Bên Ha-đát nghe nói như thế, lúc đó vua đang uống rượu với các vua trong trại quân, thì ra lịnh cho bầy tôi của vua: “Chuẩn bị tấn công!” Họ liền chuẩn bị tấn công thành. Chiến Thắng Bên Ha-đát Có một vị tiên tri kia đến gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên và nói: “CHÚA phán như vầy: ‘Ngươi có thấy đạo quân đông đảo này chăng? Hãy xem, hôm nay Ta sẽ ban nó vào trong tay ngươi, để ngươi biết rằng Ta là CHÚA.’ ” A-háp hỏi: “Nhưng biết nhờ ai bây giờ?” Vị tiên tri đáp: “CHÚA phán như vầy: Hãy nhờ những trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng.” Vua lại hỏi: “Ai sẽ dẫn đầu cuộc tấn công?” Người ấy trả lời: “Chính vua.” Vua liền triệu tập tất cả những chàng trai trẻ phục dưới quyền các quận trưởng; đếm được hai trăm ba mươi hai người. Vua cũng triệu tập cả thảy dân Y-sơ-ra-ên, được bảy ngàn người nữa, để theo sau tiếp ứng. Vào lúc giữa trưa, họ kéo quân ra. Khi ấy Bên Ha-đát và ba mươi hai vua đồng minh của vua đang uống rượu và say mèm trong trại quân. Những trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng đi tiên phong. Bên Ha-đát sai quân thám báo ra đi, họ báo cáo về cho vua: “Có người từ trong thành Sa-ma-ri đi ra.” Vua truyền: “Nếu chúng ra để cầu hòa, hãy bắt sống chúng. Nếu chúng ra để gây chiến, cũng hãy bắt sống chúng.” Nhưng những người này đã ra khỏi thành rồi. Đó là các trai trẻ phục vụ dưới quyền các quận trưởng và đạo quân đi sau tiếp hậu. Ai nấy đều đánh hạ đối phương mình. Quân A-ram bỏ chạy, và quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo. Vua Bên Ha-đát của A-ram lên ngựa chạy thoát thân với một ít kỵ binh. Vua Y-sơ-ra-ên đi ra, tấn công vào quân kỵ và các đạo quân có các xe chiến mã, đánh bại quân A-ram và gây cho họ tổn thất nặng nề. Bấy giờ vị tiên tri đến gần vua Y-sơ-ra-ên và nói với vua: “Hãy đi. Củng cố quân lực của vua cho mạnh mẽ. Hãy chuẩn bị những việc phải làm. Bởi vì mùa xuân năm sau, vua A-ram sẽ trở lại tấn công vua nữa.” Quân A-ram Lại Bị Bại Nữa Quần thần của vua A-ram tâu với vua: “Thần của họ là thần núi, cho nên họ mạnh hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đánh họ dưới đồng bằng, chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn họ. Xin vua hãy làm điều này: Hãy cách chức các vua khỏi các chức vụ điều binh, mà thay vào đó bằng các tướng lãnh. Vua hãy lập lại một đội quân như đội quân đã mất, kiếm đủ số ngựa và số xe chiến mã như đã có trước kia; rồi chúng ta đến đánh họ dưới đồng bằng. Chắc chắn chúng ta sẽ mạnh hơn họ.” Vua A-ram tán đồng ý kiến họ và làm theo như vậy. Mùa xuân năm sau, Bên Ha-đát điểm quân và kéo tới A-phéc để đánh Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên cũng điểm binh và chuẩn bị lương thực để ra nghinh địch. Dân Y-sơ-ra-ên đóng quân đối diện quân A-ram như hai bày dê nhỏ, còn quân A-ram thì đầy tràn khắp xứ. Một người của Đức Chúa Trời đến gần và nói với vua Y-sơ-ra-ên: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì dân A-ram nói: ‘CHÚA là thần núi chứ không phải thần thung lũng,’ cho nên Ta sẽ ban vào tay ngươi toàn thể đội quân lớn này, và ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA.” Họ đóng trại đối ngang nhau bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, họ bắt đầu giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên đánh giết một trăm ngàn bộ binh A-ram trong một ngày. Số còn lại chạy trốn vào thành A-phéc, nhưng các vách thành lại sụp đổ, đè chết hai mươi bảy ngàn quân còn lại. Bên Ha-đát cũng bỏ chạy vào thành và trốn trong một phòng kín. Bầy tôi của vua đến tâu với người: “Chúng tôi có nghe nói các vua của Y-sơ-ra-ên đều là những vị vua nhân từ. Vì vậy, xin cho chúng tôi buộc vải gai quanh lưng và quấn dây quanh đầu, rồi ra trình diện vua Y-sơ-ra-ên, biết đâu vua ấy sẽ tha mạng cho vua.” Vậy họ buộc vải gai quanh lưng và quấn dây quanh đầu, rồi ra trình diện vua Y-sơ-ra-ên, và nói: “Bên Ha-đát, tôi tớ vua có nói như vầy: ‘Xin vua tha mạng cho tôi.’ ” Vua Y-sơ-ra-ên hỏi: “Ông ấy vẫn còn sống sao? Ông ấy là anh em của ta mà.” Những người kia thấy có dấu hiệu tốt, liền vội vàng dựa vào đó mà nói: “Vâng, Bên Ha-đát là anh em của vua.” Vua A-háp nói tiếp: “Hãy đi dẫn ông ấy đến gặp ta.” Vậy Bên Ha-đát đi ra gặp A-háp. Vua A-háp mời Bên Ha-đát lên xe chiến mã của mình. Bên Ha-đát nói với A-háp: “Tôi sẽ trả lại cho vua những thành mà thân phụ tôi đã lấy của thân phụ vua. Vua cũng có thể lập phố chợ ngay tại Đa-mách như thân phụ tôi đã lập tại Sa-ma-ri.” Vua Y-sơ-ra-ên đáp: “Tôi chấp thuận đề nghị của vua và sẽ để cho vua ra đi.” Vậy A-háp lập giao ước với Bên Ha-đát và để cho Bên Ha-đát ra về. Một Tiên Tri Kết Án A-háp Theo lịnh CHÚA, một vị tiên tri trong hàng ngũ các tiên tri đến nói với bạn mình: “Xin hãy đánh tôi đi!” Nhưng người kia không chịu đánh. Ông ấy bèn nói với người kia: “Bởi vì anh không nghe theo lời CHÚA, vì thế một khi anh đi khỏi tôi, thì sư tử sẽ vồ chết anh.” Người kia rời khỏi ông ra đi, thì gặp ngay một con sư tử và đã bị nó vồ chết. Vị tiên tri ấy gặp một người khác, liền nói: “Xin hãy đánh tôi đi!” Người nọ đánh ông và làm cho ông bị thương. Bấy giờ vị tiên tri ấy ra đi, đứng đợi bên đường, chờ vua đi ngang qua; ông lấy vải bịt đôi mắt để giả dạng. Vừa khi vua đi qua, ông kêu cầu vua rằng: “Tôi tớ vua đang ở giữa chiến trận thì có người đem đến cho tôi tớ vua một tù binh và bảo: ‘Hãy canh giữ cẩn thận tên này. Nếu nó trốn thoát thì mạng anh phải đền cho mạng nó, còn không thì anh phải đền một ta-lâng bạc.’ Đang khi tôi tớ vua đang bận việc này việc nọ thì tên tù binh ấy đã trốn mất.” Nhà vua liền bảo ông: “Như vậy án ngươi đã rành rành. Chính ngươi đã tự kết án cho mình rồi.” Bấy giờ vị tiên tri vội gỡ bỏ tấm vải che mắt xuống. Vua liền nhận ra ông là một người trong hàng ngũ các tiên tri. Vị tiên tri nói với vua: “CHÚA phán như vầy: ‘Vì ngươi đã để cho kẻ Ta muốn phải chết thoát đi. Cho nên mạng ngươi phải đền cho mạng nó, và dân ngươi sẽ thay cho dân nó.’ ” Vua Y-sơ-ra-ên trở về cung điện mình tại Sa-ma-ri, buồn rầu và bực bội. Vụ Vườn Nho Của Na-bốt Sau các việc đó, thì xảy ra chuyện này: Na-bốt, người Gít-rê-ên, có một vườn nho ở Gít-rê-ên, kề bên cung điện của vua A-háp tại Sa-ma-ri. A-háp nói với Na-bốt: “Hãy nhượng lại vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó ở sát cạnh nhà ta. Ta sẽ đền bù cho ngươi một vườn nho khác tốt hơn; hoặc nếu ngươi thích, giá bao nhiêu, ta sẽ trả cho ngươi bằng tiền mặt.” Nhưng Na-bốt trả lời A-háp: “Nguyện xin CHÚA đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua.” Vậy A-háp trở về nhà, buồn rầu và bực bội, vì Na-bốt, người Gít-rê-ên, có nói với vua: “Tôi không thể nhượng cho vua sản nghiệp của tổ tiên tôi.” Vua nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn. Hoàng hậu Giê-sa-bên vào gặp vua và nói: “Tại sao tâm thần vua buồn rầu và vua không chịu ăn?” Vua trả lời: “Tại vì ta có nói với Na-bốt, người Gít-rê-ên, rằng: ‘Hãy bán vườn nho của ngươi cho ta, ta sẽ trả tiền cho, hoặc nếu ngươi muốn, ta sẽ đền cho ngươi một vườn nho khác.’ Nhưng hắn nói: ‘Tôi sẽ không nhượng vườn nho của tôi cho vua đâu.’ ” Hoàng hậu Giê-sa-bên nói với vua: “Há chẳng phải vua đang cai trị trên Y-sơ-ra-ên sao? Xin vua hãy chỗi dậy và ăn đi. Xin vua hãy vui lên. Thần thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên.” Vậy bà nhân danh vua A-háp viết thư, lấy ấn dấu của vua đóng lên, rồi bà gởi các bức thư đó cho các trưởng lão và những người quyền quý sống cùng thành với Na-bốt. Bà viết trong các thư ấy rằng: “Hãy rao một cuộc kiêng ăn. Hãy đặt Na-bốt ngồi trước mặt dân thành. Hãy để hai kẻ làm chứng dối ngồi đối diện hắn và bảo hai kẻ đó làm chứng rằng Na-bốt đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua. Rồi hãy đem hắn ra ngoài và ném đá cho hắn chết đi.” Những người trong thành, tức các trưởng lão và những người quyền quý sống trong thành, làm y như lời Giê-sa-bên đã gởi cho họ. Theo như thư bà gởi cho, họ rao một cuộc kiêng ăn, và đặt Na-bốt ngồi trước dân thành. Hai kẻ làm chứng dối bước vào, ngồi đối diện Na-bốt. Hai tên vô lại đó tố cáo Na-bốt trước mặt dân thành rằng: “Na-bốt đã rủa sả Đức Chúa Trời và vua.” Vậy họ đem Na-bốt ra ngoài thành và ném đá cho ông chết. Rồi họ gởi tin cho Giê-sa-bên bảo: “Na-bốt đã bị ném đá và đã chết.” Khi Giê-sa-bên nghe tin Na-bốt đã bị ném đá và đã chết, Giê-sa-bên đến nói với A-háp: “Xin vua hãy đi, chiếm lấy vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên, mà hắn đã không chịu bán cho vua để lấy tiền, vì Na-bốt không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi.” Vừa khi A-háp nghe tin Na-bốt đã chết, A-háp đứng dậy, đi xuống vườn nho của Na-bốt, người Gít-rê-ên, để chiếm đoạt cho mình. Ê-li Tuyên Bố Án Phạt Của Chúa Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li người Thi-sê-be rằng: “Hãy đi gặp vua A-háp của Y-sơ-ra-ên, đang cai trị tại Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong vườn nho của Na-bốt, là sản nghiệp nó đã chiếm đoạt cho mình. Ngươi hãy nói với nó rằng: CHÚA phán như vầy: ‘Có phải ngươi đã giết người và cướp của chăng?’ Ngươi cũng hãy nói với nó: ‘CHÚA phán như vầy: Tại chỗ chó đã liếm máu của Na-bốt, chó cũng sẽ liếm máu của ngươi.’ ” A-háp nói với Ê-li: “Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt quả tang được ta sao?” Tiên tri Ê-li đáp: “Tôi đã bắt quả tang được vua rồi. Vì vua đã tự bán mình để làm điều ác trước mặt CHÚA, nên Ngài phán: ‘Ta sẽ mang tai họa đến trên ngươi. Ta sẽ diệt sạch hậu tự ngươi. Ta sẽ diệt khỏi nhà A-háp mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên, bất kể nô lệ hay tự do. Ta sẽ khiến nhà ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, và giống như nhà của Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.’ Còn về Giê-sa-bên, thì CHÚA phán: ‘Chó sẽ ăn thịt Giê-sa-bên trong khu vực Gít-rê-ên.’ Ai thuộc gia đình A-háp chết trong thành sẽ bị chó ăn thịt, còn ai trong gia đình nó chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn thịt.” Thật chẳng có ai giống như A-háp, là kẻ đã tự bán mình để làm điều ác trước mặt CHÚA, và bị vợ là Giê-sa-bên xúi giục. A-háp đã hành động cách ghê tởm khi đi theo các hình tượng, như dân A-mô-rít đã làm; họ là những kẻ mà CHÚA đã đuổi đi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Khi A-háp nghe những lời đó thì vua xé quần áo mình, lấy bao gai che đậy da thịt mình, kiêng ăn, nằm trong tro, và bước đi cách thiểu não. Bấy giờ có lời của CHÚA đến với Ê-li người Thi-sê-be rằng: “Ngươi có thấy A-háp đã hạ mình như thế nào trước mặt Ta chăng? Bởi vì nó đã hạ mình trước mặt Ta, nên Ta sẽ không giáng tai họa xuống trong đời nó; Ta sẽ giáng tai họa xuống trên nhà nó trong đời con nó.” Y-sơ-ra-ên Và Giu-đa Liên Minh Chống Lại A-ram Suốt ba năm, giữa A-ram và Y-sơ-ra-ên không có chiến tranh. Nhưng vào năm thứ ba, vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa xuống thăm vua Y-sơ-ra-ên. Vua của Y-sơ-ra-ên nói với bầy tôi của mình: “Các ngươi biết đó, Ra-mốt Ga-la-át là địa phận của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng làm gì cả để lấy nó lại từ tay vua A-ram.” Vua nói với Giê-hô-sa-phát: “Vua có muốn đi đánh Ra-mốt Ga-la-át với tôi không?” Giê-hô-sa-phát trả lời: “Tôi cũng như vua, quân dân tôi cũng như quân dân vua, chiến mã tôi cũng như chiến mã vua.” Tuy nhiên Giê-hô-sa-phát cũng nói thêm với vua Y-sơ-ra-ên: “Nhưng chúng ta phải cầu hỏi ý CHÚA trước đã.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên tập họp các tiên tri lại với nhau. Có khoảng bốn trăm vị cả thảy. Vua hỏi họ, “Ta có nên tiến đánh Ra-mốt Ga-la-át, hay là nên đình lại?” Họ đáp: “Vua hãy lên đánh đi. Vì CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua.” Nhưng Giê-hô-sa-phát hỏi: “Ở đây còn có vị tiên tri nào của CHÚA nữa mà chúng ta có thể cầu vấn chăng?” Vua của Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Còn một người nữa mà chúng ta có thể cầu hỏi ý CHÚA; đó là Mi-chê, con của Giêm-la; nhưng tôi ghét ông ấy, vì ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ thôi.” Giê-hô-sa-phát nói: “Xin vua đừng nói như thế.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên truyền cho một vị quan đến và bảo: “Hãy lập tức đưa Mi-chê, con của Giêm-la, đến đây.” Khi ấy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa, mỗi người đều mặc vương bào, ngồi trên ngai của mình, trong sân đạp lúa, gần lối vào ở cổng thành Sa-ma-ri, và tất cả các tiên tri đều nói tiên tri trước mặt họ. Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, làm cho mình một cặp sừng bằng sắt, và nói: “CHÚA phán như vầy: Với các sừng này, vua sẽ húc dân A-ram cho đến khi chúng bị tuyệt diệt.” Tất cả các tiên tri đều nói như vậy, mà rằng: “Hãy lên Ra-mốt Ga-la-át và được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua.” Mi-chê Báo Trước Sự Thất Trận Sứ giả được sai đi mời Mi-chê nói với ông: “Này, tất cả các vị tiên tri kia đều nói những lời hợp với ý của vua; mong rằng lời ông cũng phù hợp với lời họ mà nói lên sự tán thành.” Nhưng Mi-chê đáp: “Thật như CHÚA hằng sống chứng giám, tôi chỉ có thể nói những gì CHÚA bảo tôi nói mà thôi.” Khi Mi-chê đến gặp vua, vua hỏi ông: “Mi-chê, chúng ta có nên lên đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là chúng ta nên đình lại?” Ông đáp: “Lên đánh đi và sẽ được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua mà.” Nhưng vua nói: “Ta phải nói với ngươi bao nhiêu lần để ngươi phải nhân danh CHÚA mà thề rằng ngươi chỉ nói cho ta sự thật mà thôi?” Bấy giờ Mi-chê nói: “Tôi thấy Y-sơ-ra-ên tan lạc trên các núi rừng, như chiên không có người chăn; và CHÚA phán: ‘Họ chẳng có chủ. Ai nấy sẽ về nhà mình bình an.’ ” Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Chẳng phải tôi đã nói với vua rằng ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ sao?” Mi-chê lại nói: “Vậy hãy nghe lời của CHÚA. Tôi thấy CHÚA ngồi trên ngai, với tất cả thiên binh đứng hầu bên phải và bên trái Ngài. CHÚA hỏi: ‘Ai sẽ đi dụ A-háp để nó đi lên và gục ngã tại Ra-mốt Ga-la-át đây?’ Vị thì nói thế này, vị thì nói thế khác, cho đến khi có một vị thần tiến tới, đứng trước mặt CHÚA và nói: ‘Thần xin đi dụ hắn cho.’ CHÚA hỏi: ‘Làm thể nào?’ Vị thần ấy đáp: ‘Thần xin đi làm một thần nói dối trong miệng các tiên tri của hắn.’ Bấy giờ CHÚA phán: ‘Ngươi sẽ làm kẻ dụ hắn và ngươi sẽ thành công. Hãy đi và làm như vậy.’ Thế thì vua có thấy không, CHÚA đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri này của vua. CHÚA đã định giáng họa cho vua đó.” Khi ấy Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, đến tát vào má của Mi-chê một cái và nói: “Sao mà Thần của CHÚA ra khỏi ta mà đến phán cùng ngươi?” Mi-chê trả lời: “Ông sẽ biết rõ điều đó trong ngày ông chui trốn trong một phòng kín.” Vua Y-sơ-ra-ên bèn ra lịnh: “Hãy bắt Mi-chê giao cho A-môn, quan tổng quản kinh thành, và giao cho hoàng tử Giô-ách, và truyền rằng: ‘Vua phán như vầy: Hãy nhốt tên này vào ngục, hãy cho nó bánh và nước đủ sống cầm hơi, cho đến khi ta trở về bình an.’ ” Mi-chê nói: “Nếu vua trở về bình an thì CHÚA đã không phán qua tôi.” Rồi ông tiếp: “Hỡi mọi người, hãy nghe ta nói!” A-háp Thất Trận Và Qua Đời Vậy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa đi lên Ra-mốt Ga-la-át. Vua của Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Tôi sẽ cải trang và xung trận, nhưng vua cứ mặc vương bào.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên cải trang cho mình và xông vào chiến trận. Khi ấy vua của A-ram có truyền lịnh cho ba mươi hai tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã: “Các ngươi chớ đánh ai, bất kể nhỏ hay lớn, mà chỉ nhắm vào vua Y-sơ-ra-ên mà đánh cho ta.” Khi các tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ nghĩ: “Chắc là vua Y-sơ-ra-ên đây rồi.” Cho nên họ cùng nhau tấn công vào vua; nhưng khi Giê-hô-sa-phát gào thét lên, họ nhận ra đấy không phải là vua Y-sơ-ra-ên, cho nên họ quay trở lại và không đuổi theo vua nữa. Nhưng có một người giương cung bắn đại, không ngờ tên lại trúng ngay vào giữa khớp áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên. Vua nói với người đánh xe của mình: “Hãy quay trở lại và đưa ta ra khỏi chiến trường, vì ta đã bị thương.” Nhưng ngày hôm đó, trận chiến đã trở nên khốc liệt, cho nên người ta phải đỡ cho vua đứng trên xe chiến mã mà đối diện với quân A-ram. Máu từ vết thương của vua chảy xuống ướt đẫm cả sàn xe, và đến chiều tối thì vua chết. Hoàng hôn đến, người ta rao lên giữa đội quân rằng: “Ai nấy hãy trở về thành mình! Ai nấy hãy trở về xứ mình!” Vậy vua qua đời và được đem về Sa-ma-ri; người ta chôn cất vua tại Sa-ma-ri. Họ rửa chiếc xe chiến mã của vua bên bờ hồ Sa-ma-ri, chỗ các gái điếm tắm rửa, và chó đến liếm máu của vua, đúng y như lời của CHÚA đã phán trước. Những việc khác của A-háp, tất cả những việc vua làm, cung điện bằng ngà vua xây cất, và tất cả những thành vua xây dựng, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? Vậy A-háp an giấc với các tổ phụ mình và A-cha-xia, con trai vua, lên ngôi kế vị. Giê-hô-sa-phát Trị Vì Giu-đa Giê-hô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa vào năm thứ tư triều vua A-háp của Y-sơ-ra-ên. Giê-hô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua, và vua trị vì hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-xu-ba, con gái của Si-chi. Vua đi trong mọi đường lối của A-sa, cha mình, mà không hề sai lệch. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA. Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dân chúng vẫn còn dâng sinh tế và dâng hương trong các đền miếu trên những nơi cao đó. Giê-hô-sa-phát giao hảo thuận hòa với vua Y-sơ-ra-ên. Những việc khác của Giê-hô-sa-phát, những thành quả vua đạt, và những chiến tích quân sự của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Vua diệt trừ khỏi xứ bọn đàn ông làm điếm phục vụ trong các đền miếu còn sót lại trong thời phụ vương của vua. Lúc ấy trong xứ Ê-đôm không có vua; chỉ có một vị quan làm nhiếp chính. Giê-hô-sa-phát đóng một đoàn thương thuyền Ta-rê-si để đi Ô-phia mua vàng, nhưng đoàn tàu đó không đi được, vì mới đến Ê-xi-ôn Ghê-be thì đoàn tàu đã vỡ. Lúc ấy A-cha-xia, con trai A-háp, có nói với Giê-hô-sa-phát: “Xin hãy cho các tôi tớ tôi cùng đi trên các tàu đó với các tôi tớ vua,” nhưng Giê-hô-sa-phát không cho. Giê-hô-sa-phát an giấc với các tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít, là tổ phụ vua. Giô-ram, con trai vua, lên ngôi kế vị. A-cha-xia Trị Vì Y-sơ-ra-ên A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên ở Sa-ma-ri vào năm thứ mười bảy triều vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong đường lối của cha mẹ vua cũng theo đường lối của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là người đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. Vua phục vụ Ba-anh và thờ lạy nó. Vua chọc giận CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, như cha của vua đã làm.