- New Vietnamese Bible 20141 Sa-mu-ên1 SA-MU-ÊN1 Sa-mu-ên1Sa1 SA-MU-ÊNGiới ThiệuQuyển sách này ghi lại giai đoạn chuyển tiếp trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên từ chế độ “Thẩm Phán” đến chế độ quân chủ. Sự thay đổi chế độ này trong đời sống dân tộc Y-sơ-ra-ên xoay quanh ba nhân vật chính: tiên tri Sa-mu-ên, vị thẩm phán cuối cùng; Sau-lơ, vị vua đầu tiên; và Đa-vít, người sau này nối ngôi Sau-lơ.Chủ đề của sách này cũng là chủ đề của các sách lịch sử khác trong Cựu Ước: người nào trung tín với Đức Chúa Trời được thành công, còn người nào không vâng lời Ngài thất bại thê thảm. Lời Chúa phán với thầy tế lễ Hê-li trong 2:30 nêu rõ lẽ thật ấy: “Ai tôn trọng Ta sẽ được Ta tôn trọng, còn ai khinh dể Ta sẽ bị Ta khinh dể.”Chính Đức Chúa Trời mới thật sự là vua dân Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, khi dân Ngài xin một vua để cai trị họ, Chúa vẫn chọn cho họ một người để làm vua. Điều quan trọng là cả vua và dân đều sống dưới quyền tể trị và phán xét của Đức Chúa Trời (2:7-10). Theo luật của Đức Chúa Trời, quyền hạn của mọi người giàu nghèo đều phải được tôn trọng.Bố Cục1. Sa-mu-ên làm thẩm phán xét xử dân Y-sơ-ra-ên 1:1–7:172. Sau-lơ được phong làm vua 8:1–10:273. Những năm đầu dưới triều Sau-lơ 11:1–15:354. Đa-vít và Sau-lơ 16:1–30:315. Sự chết của vua Sau-lơ và các con trai vua 31:1-13Sa-mu-ên Làm Thẩm Phán Xét Xử Dân Y-sơ-ra-ênTại Ra-ma-tha-im của dòng họ Xu-phơ1:1 Nt: Ra-ma-tha-im Xô-phim, theo 1:19; 2:11; 7:17; 9:5-6; 15:34; 19:18, thì quê quán của Sa-mu-ên là thành Ra-ma, thuộc tỉnh Xu-phơ thuộc vùng Ép-ra-im, có một người tên là Ên-ca-na. Ông này là con của ông Giê-rô-ham, cháu ông Ê-li-hu, chắt ông Tô-hu, và chít ông Xu-phơ, thuộc bộ tộc Ép-ra-im. Ông Ên-ca-na có hai vợ; người vợ đầu tiên là An-ne, người vợ kế tên là Phê-ni-na. Bà Phê-ni-na có con, nhưng bà An-ne thì không.Hằng năm, ông thường từ thành mình lên đền thờ tại Si-lô thờ phượng CHÚA Toàn Năng và dâng sinh tế cho Ngài. Thầy tế lễ của CHÚA tại đó là Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con trai của ông Hê-li. Một ngày kia ông Ên-ca-na dâng sinh tế. Theo lệ thường, sau khi dâng xong, ông chia thịt sinh tế ra cho vợ là bà Phê-ni-na, và cho hết thảy các con trai con gái bà, mỗi người một phần. Dù ông yêu quí bà An-ne nhiều hơn, ông cũng chia cho bà An-ne chỉ một phần thôi1:5 Dịch theo LXX; nt: không rõ nghĩa; ctd: ông chia cho bà An-ne một phần đặc biệt, vì ông yêu bà nhiều hơn vì CHÚA không cho bà sanh con. Bà Phê-ni-na, đối thủ của bà, tìm đủ cách chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì CHÚA đã làm cho bà son sẻ. Sự việc cứ tái diễn1:7 Nt: Ông cứ làm như vậy năm này sang năm khác. Mỗi khi bà An-ne lên đền thờ CHÚA, bà Phê-ni-na cứ chọc tức bà đến nỗi bà khóc và chẳng thiết ăn. Ông Ên-ca-na, chồng bà, hỏi bà: “An-ne, sao em lại khóc? Sao em không chịu ăn? Sao em buồn rầu như vậy? Đối với em, anh không quí hơn mười đứa con trai sao?”Bà An-ne Và Thầy Tế Lễ Hê-liSau khi ăn uống xong tại Si-lô, bà An-ne đứng dậy1:9 LXX thêm: và đến chầu trước mặt CHÚA Thầy tế lễ Hê-li đang ngồi trên ghế, cạnh bên cửa đền thờ CHÚA. Bà An-ne sầu khổ lắm. Bà vừa khóc vừa cầu nguyện tha thiết với CHÚA. Bà hứa nguyện: “Lạy CHÚA Toàn Năng, xin Ngài đoái thương con đòi của Ngài! Xin Ngài nhìn thấy cảnh đau khổ của con và nhớ tới con. Xin Ngài đừng quên con đòi Ngài. Xin Ngài ban cho con đòi Ngài một đứa con trai, con nguyện dâng nó cho CHÚA trọn đời. Tóc nó sẽ không bao giờ bị cắt.”Bà tiếp tục cầu khẩn thật lâu trước mặt CHÚA, nên ông Hê-li theo dõi miệng bà. Ông chỉ thấy môi bà mấp máy, chớ chẳng nghe tiếng nào, vì bà An-ne cầu nguyện thầm trong lòng, nên ông tưởng bà say rượu. Ông Hê-li bảo bà: “Chị còn say cho đến chừng nào? Chị về dã rượu đi.”Bà An-ne thưa: “Thưa ông, tôi không say đâu. Tôi là một người đàn bà khốn khổ. Tôi không có uống rượu hoặc bia gì cả. Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt CHÚA. Xin ông đừng coi tôi là hạng đàn bà hư hỏng. Tôi cầu nguyện lâu chừng ấy là vì tôi sầu khổ và buồn bực quá đỗi.”Ông Hê-li đáp: “Chị an tâm về nhà. Cầu xin Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban cho chị điều chị cầu xin Ngài.” Bà An-ne thưa: “Xin ông luôn nhớ đến tôi là phận hèn mọn.” Bà trở về, dùng bữa. Nét mặt bà không còn ưu sầu nữa.Sa-mu-ên Ra ĐờiSáng hôm sau, ông Ên-ca-na và gia đình dậy sớm, sấp mình thờ phượng CHÚA, rồi trở về nhà mình tại Ra-ma.Ông Ên-ca-na ăn ở với bà An-ne, vợ mình. CHÚA nhớ đến bà. Bà An-ne thụ thai. Mãn kỳ thai nghén, bà sanh một con trai, đặt tên là Sa-mu-ên1:20 Trong tiếng Hy-bá, Sa-mu-ên có thể liên hệ với động từ có nghĩa “cầu xin,” và nhóm từ có nghĩa “từ Đức Chúa Trời.” và giải thích: “Tôi đã cầu xin CHÚA ban cho tôi một đứa con.”Đến ngày ông Ên-ca-na và cả gia đình lên đền thờ dâng lên CHÚA sinh tế hằng năm cùng với lễ vật ông khấn nguyện. Nhưng lần này, bà An-ne không đi. Bà nói với chồng: “Đợi khi nào con dứt sữa, em sẽ dẫn con lên trình diện CHÚA, rồi con sẽ ở lại đó suốt đời.” Ông Ên-ca-na, chồng bà, đáp: “Em thấy điều gì phải thì làm. Em cứ ở nhà cho đến khi con thôi bú. Cầu xin CHÚA cho việc xảy ra y theo lời em hứa.”1:23 Dịch theo LXX và Qumran; nt: Lời Ngài Vậy, bà vợ ở lại nhà cho con bú cho đến khi nó dứt sữa.Ngay sau khi con thôi bú, dù nó hãy còn nhỏ lắm, bà dẫn con lên đền thờ CHÚA tại Si-lô. Bà cùng với chồng đem theo một con bò đực ba tuổi1:24 Dịch theo LXX và Syr; nt: ba con bò đực một bao bột khoảng chừng một ê-pha,1:24 Khoảng 22l và một bầu rượu. Họ làm thịt con bò dâng lên CHÚA1:25 Nt: Họ giết con bò rồi dẫn con đến gặp ông Hê-li. Bà nói: “Thưa ông, ông còn nhớ tôi không? Tôi chính là người đàn bà trước đây cầu khẩn CHÚA tại nơi này, cạnh bên ông. Tôi cầu xin Ngài cho tôi đứa con này. CHÚA đã ban cho tôi điều tôi cầu xin Ngài. Nay tôi xin dâng con tôi lại cho CHÚA. Nó thuộc về CHÚA trọn đời nó.”Rồi cả gia đình1:28 Dịch theo Vg và Syr; nt: “nó” có thể chỉ Sa-mu-ên hoặc ông Ên-ca-na thờ phượng CHÚA.Bà An-ne Cảm Tạ ChúaBà An-ne cầu nguyện:“CHÚA cho lòng con ngập tràn vui mừng,CHÚA cho con đắc thắng2:1 Nt: Sừng con caoCon cười2:1 Nt: miệng con mở rộng đối với kẻ thù con,Con vui mừng vì Ngài cứu giúp con.Không ai thánh như CHÚA,Thật vậy, không có ai ngoài Ngài.Không ai là vầng đá che chở chúng con như Đức Chúa Trời.Đừng lải nhải khoe khoang,Đừng nói lời ngạo mạn,Vì CHÚA là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều,Ngài cân nhắc mọi hành động.Cây cung của dũng sĩ bị bẻ gãy,Nhưng người yếu đuối được thêm sức.Người vốn no đủ phải làm mướn kiếm ăn,Còn kẻ đói khát được no nê.Người hiếm hoi sanh năm bảy đứa,Kẻ đông con nay lại úa tàn.CHÚA cầm quyền sống chết,Ngài cho người xuống mồ mã, cũng có quyền đem lên.CHÚA khiến cho nghèo hèn hoặc giàu có,Ngài hạ xuống thấp, cũng nâng lên cao.Ngài đỡ kẻ nghèo lên khỏi bụi đất,Nâng kẻ khốn cùng lên khỏi đống phân tro,Đặt họ ngồi chung với kẻ quyền cao chức trọng,Ban ngai danh dự cho họ thừa kế.Vì các cột trụ của trái đất thuộc về CHÚA,Ngài đặt thế giới trên các trụ đó.Ngài gìn giữ bước chân của người trung tín với Ngài,Nhưng kẻ ác chết mất trong tối tăm.Vì không ai thắng được nhờ sức riêng mình.Lạy CHÚA, những kẻ chống đối Ngài sẽ bị tan xác,Từ trời, Ngài khiến sấm sét nổ vang đánh chúng tan nát.CHÚA xét xử cả thế gian,Ngài ban sức mạnh cho vua Ngài chọn,Ngài ban chiến thắng cho đấng được Ngài xức dầu.”2:10 Trong Xuất 30:22-30 CHÚA dạy người Do Thái pha chế một loại dầu đặc biệt dùng đổ lên đầu người được CHÚA chọn làm thầy tế lễ, tiên tri, hoặc vua, trong dịp lễ tấn phongSau đó, ông Ên-ca-na trở về nhà mình tại Ra-ma; còn cậu bé ở lại phục vụ CHÚA dưới sự hướng dẫn của thầy tế lễ Hê-li.Hai Người Con Của Ông Hê-liCác con trai ông Hê-li là những thanh niên hư hỏng, không biết kính sợ CHÚA, cũng không tôn trọng các luật lệ thầy tế lễ phải tuân theo đối với dân chúng. Nhưng mỗi khi có người dâng sinh tế, đầy tớ của thầy tế lễ đến lấy thịt đang sôi, tay cầm chỉa ba, đâm vào trong nồi, hoặc chảo, vạc hay niêu; bất cứ chỉa ba kéo lên được miếng thịt nào, miếng đó dành cho thầy tế lễ. Họ cư xử như vậy đối với mọi người Y-sơ-ra-ên đến dâng sinh tế cho CHÚA2:14 Dịch theo LXX; nt: đến đó tại Si-lô. Hơn nữa, ngay trước khi người ta dâng mỡ, đốt cho khói xông lên ngào ngạt, đầy tớ thầy tế lễ đến nói với người dâng sinh tế: “Anh hãy đưa cho tôi thịt về quay cho thầy tế lễ, vì ông không nhận thịt luộc của anh đâu, chỉ nhận thịt sống thôi.”Nếu người kia đáp: “Chúng ta hãy đốt mỡ dâng lên trước, theo như qui định, rồi anh muốn lấy bao nhiêu tùy ý,” đầy tớ sẽ dọa: “Không được, anh phải đưa ngay bây giờ, bằng không, tôi đành phải dùng vũ lực để lấy thịt.” Như vậy, các con trai ông Hê-li2:17 Nt: Các thanh niên phạm tội nặng lắm đối với CHÚA vì họ khinh dể lễ vật người ta dâng lên CHÚA.Gia Đình Sa-mu-ênTrong khi ấy, cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục phục vụ CHÚA. Cậu bé mặc chiếc khố bằng vải lanh.2:18 Nt: “Ê-phót”; có thể đây là một loại quần đùi dành cho các thầy tế lễ; xem 2Sa 6:14; 1Sử 15:27; ê-phót ở đây khác với ê-phót trong Xuất 28:6-14Mỗi năm, mẹ cậu may một chiếc áo dài nhỏ, đem lên cho cậu khi bà đi với chồng lên dâng tế lễ hằng năm. Thầy tế lễ Hê-li thường chúc phước cho vợ chồng ông Ên-ca-na: “Cầu xin CHÚA ban cho chị sanh thêm cho anh những đứa con khác thay cho đứa con chị đã cầu xin và dâng lại cho CHÚA.” Rồi họ trở về nhà. CHÚA ban phước2:21 Nt: thăm viếng cho bà An-ne; bà thụ thai và sanh thêm ba trai và hai gái nữa.Còn cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục lớn lên và phục vụ CHÚA.Ông Hê-li Răn Dạy ConThầy tế lễ Hê-li bấy giờ già lắm rồi. Ông thường nghe nói về mọi điều các con ông làm đối với toàn dân Y-sơ-ra-ên. Ông cũng nghe nói chúng ăn nằm với các phụ nữ giúp việc tại cửa Trại Hội Kiến. Ông thường bảo chúng: “Sao các con làm những chuyện như vậy? Ba nghe mọi người đàm tiếu về những việc ác của các con. Đừng làm nữa các con! Tiếng đồn ba nghe con dân CHÚA rêu rao không tốt đâu. Nếu người này phạm tội với người kia, Đức Chúa Trời có thể làm trung gian hòa giải giữa hai bên,2:25 Nt: Không rõ nghĩa; có bản dịch: bào chữa, tha thứ nhưng nếu một người phạm tội với CHÚA, ai dám cầu thay cho người đó?”Nhưng chúng vẫn không chịu nghe lời cha khuyên dạy, vì CHÚA đã quyết định chúng phải chết. Trong khi đó, cậu Sa-mu-ên ngày càng khôn lớn, làm vui lòng CHÚA và người.Tiên Tri Báo Trước Chúa Sẽ Phạt Ông Hê-li Và Gia Đình ÔngCó một người của Đức Chúa Trời đến báo cho ông Hê-li: “Đây là lời CHÚA phán: ‘Chính Ta đã tự tỏ mình ra cho tổ phụ ngươi khi họ phục dịch Pha-ra-ôn bên Ai-cập. Trong tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, Ta đã chọn dòng họ tổ phụ ngươi để giữ chức tế lễ cho Ta, để dâng sinh tế trên bàn thờ của Ta, để đốt hương, để đeo ê-phót cầu hỏi ý Ta. Ta cũng ban cho dòng họ tổ phụ ngươi tất cả các lễ vật dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và đốt cháy trên bàn thờ. Vậy sao các ngươi chà đạp lên2:29 LXX: Nhìn cách tham lam các sinh tế và lễ vật ngũ cốc Ta truyền dâng trong đền thờ Ta? Sao các ngươi nuôi mình cho mập, ăn phần ngon nhất trong mọi lễ vật dân Y-sơ-ra-ên Ta dâng lên cho Ta? Sao ngươi tôn trọng các con trai ngươi hơn Ta?’ ”Vì thế, CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Ta có hứa cho dòng họ tổ phụ ngươi và cho dòng dõi ngươi phụng sự Ta suốt đời. Nhưng bây giơ, CHÚA phán, không được nữa! Vì ai tôn trọng Ta sẽ được Ta tôn trọng, còn ai khinh dể Ta sẽ bị Ta khinh dể. Này, trong những ngày sắp tới, Ta sẽ chặt gãy những người đang tuổi sung sức để cho không còn ai sống đến già trong dòng họ ngươi và dòng họ tổ phụ ngươi nữa. Ngươi sẽ nhìn thấy đối thủ phụng sự trong đền thờ Ta.2:32 Nt: không rõ nghĩa; ctd: “ngươi sẽ rầu rỉ nhìn đền thờ”; hoặc “ngươi sẽ khổ sở và thèm thuồng nhìn thấy” Mọi sự sẽ tốt đẹp cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng trong dòng họ ngươi, sẽ không bao giờ có người nào sống đến già nữa. Ta sẽ chừa lại một người trong dòng dõi ngươi để phụng sự tại bàn thờ Ta. Nhưng người đó sẽ mòn mỏi vì sầu não2:33 Dịch theo LXX; nt: mắt ngươi sẽ mòn mỏi và linh hồn ngươi sẽ sầu não khi mọi người khác trong dòng họ ngươi chết vì lưỡi gươm.2:33 Dịch theo LXX; nt: chết như ngườiĐiều xảy đến cho hai con trai ngươi, Hóp-ni và Phi-nê-a, sẽ là điềm chứng tỏ cho ngươi biết mọi điều Ta phán sẽ ứng nghiệm. Hai con ngươi sẽ chết trong cùng một ngày. Ta sẽ dấy lên một người trung tín làm chức tế lễ cho Ta. Người ấy sẽ làm mọi sự đẹp lòng Ta và theo ý Ta. Ta sẽ gây dựng nhà người, ban cho người một dòng dõi trung tín để mãi mãi giữ chức tế lễ bên cạnh vua do Ta chọn và xức dầu. Người nào còn sống sót trong dòng họ ngươi sẽ đến quì lạy thầy tế lễ đó, van xin một đồng tiền hoặc một miếng bánh, và thưa: ‘Xin cho tôi được phụ giúp bất cứ việc gì bên cạnh các thầy tế lễ để kiếm miếng ăn.’ ”CHÚA Lập Sa-mu-ên Làm Tiên TriTrong khi ấy, cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục phục vụ CHÚA dưới sự hướng dẫn của ông Hê-li. Thời bấy giờ, lời CHÚA phán trực tiếp với loài người rất hiếm; Ngài cũng chẳng ban khải tượng.Một đêm kia, ông Hê-li đang nằm ngủ trong chỗ ông thường nằm. Mắt ông bắt đầu mờ, không thấy rõ. Sa-mu-ên cũng nằm ngủ trong đền thờ CHÚA, nơi để Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. Lúc ấy, đèn của Đức Chúa Trời chưa tắt. CHÚA gọi Sa-mu-ên. Cậu bé đáp: “Dạ, con đây!” Cậu chạy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.”Ông Hê-li bảo: “Ta không có gọi con. Đi ngủ trở lại đi.”Cậu bé trở về ngủ. CHÚA lại gọi nữa: “Sa-mu-ên!”Sa-mu-ên thức dậy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.”Ông Hê-li bảo: “Ta không có gọi con đâu. Con đi ngủ đi.”Lúc ấy, Sa-mu-ên chưa nhận ra tiếng CHÚA vì CHÚA chưa phán trực tiếp với cậu. CHÚA lại gọi lần thứ ba: “Sa-mu-ên.”Cậu thức dậy đến bên ông Hê-li: “Thưa ông, ông gọi con.” Bây giờ ông Hê-li mới hiểu là CHÚA gọi cậu bé. Ông Hê-li bảo Sa-mu-ên: “Con hãy về ngủ đi. Nếu có tiếng gọi con nữa, hãy thưa: ‘Lạy CHÚA, xin phán dạy. Tôi tớ Ngài đang nghe.’ ” Sa-mu-ên trở về chỗ mình nằm ngủ.CHÚA đến đứng cạnh bên và gọi như các lần trước: “Sa-mu-ên! Sa-mu-ên!”Sa-mu-ên thưa: “Lạy Chúa, xin phán dạy. Tôi tớ Ngài đang nghe.” CHÚA bảo Sa-mu-ên: “Này, Ta sắp làm một việc giữa dân Y-sơ-ra-ên, đến nỗi ai nghe cũng phải ù cả hai tai. Ngày ấy, Ta sẽ thực hiện mọi điều Ta báo trước cho gia đình Hê-li, từ đầu đến cuối. Ta đã cảnh cáo Hê-li là Ta sẽ trừng phạt gia đình người đến muôn đời, vì người biết các con trai mình phạm tội khinh dể Đức Chúa Trời mà không ngăn cản chúng. Vì thế, Ta hứa quả quyết là tội của gia đình Hê-li sẽ không bao giờ chuộc được, dù bằng sinh tế hay lễ vật ngũ cốc.”Sa-mu-ên nằm ngủ cho đến sáng. Rồi cậu mở cửa đền thờ CHÚA. Sa-mu-ên sợ, không dám thuật lại khải tượng cho ông Hê-li. Nhưng ông Hê-li gọi Sa-mu-ên: “Sa-mu-ên lại đây con!” Cậu bé thưa: “Dạ, con đây.” Ông Hê-li hỏi: “Chúa phán dạy con điều gì? Con đừng giấu gì ông hết. Cầu xin Đức Chúa Trời trừng phạt con nặng nề nếu con giấu ông một chi tiết gì trong mọi điều Chúa phán bảo con.” Sa-mu-ên thuật lại cho ông nghe mọi điều, không giấu chi hết. Ông bảo: “Ngài chính là CHÚA. Xin Ngài làm điều gì thấy là tốt.”CHÚA ở cùng Sa-mu-ên đang khi cậu trưởng thành. Ngài thực hiện mọi điều cậu nói theo lệnh CHÚA. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, từ Đan đến Bê-e-sê-ba, đều biết Sa-mu-ên là tiên tri trung thực của CHÚA. CHÚA tiếp tục hiện ra tại Si-lô: thật chính tại Si-lô, CHÚA tự tỏ mình ra cho Sa-mu-ên với lời của CHÚA.Và Sa-mu-ên truyền lời Ngài4:1 Nt: lời Sa-mu-ên truyền ra cho toàn dân Y-sơ-ra-ên.Rương Giao Ước Trong Tay Kẻ ThùMột ngày kia, người Phi-li-tin tập họp lực lượng đánh dân Y-sơ-ra-ên.4:1 Dịch theo LXX; nt: Hy-bá không có phần này Khi dân Y-sơ-ra-ên ra trận chiến đấu với người Phi-li-tin, họ đóng quân tại Ê-bên Ê-xe4:1 Có nghĩa là “hòn đá cứu giúp.” còn người Phi-li-tin đóng tại A-phéc. Người Phi-li-tin dàn binh giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Trận chiến càng thêm ác liệt. Dân Y-sơ-ra-ên thua trận, bị quân Phi-li-tin đánh giết khoảng bốn ngàn người ngoài trận địa. Khi đoàn quân sống sót trở về trại, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên tự hỏi nhau: “Tại sao CHÚA để cho quân Phi-li-tin đánh bại chúng ta hôm nay? Chúng ta hãy mang Rương Giao Ước của CHÚA từ Si-lô về đây. Ngài sẽ ở giữa chúng ta, và giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù.”Vậy họ sai người đến Si-lô khiêng về Rương Giao Ước của CHÚA Toàn Năng, Đấng ngự trên các chê-ru-bim.4:4 Các tạo vật có cánh ở trên nắp Rương Giao Ước Hóp-ni và Phi-nê-a, hai người con của thầy tế lễ Hê-li, cũng về theo Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. Khi Rương Giao Ước của CHÚA về đến trại, toàn quân Y-sơ-ra-ên reo mừng vang dội đến nỗi đất rung chuyển. Người Phi-li-tin nghe tiếng reo hò liền hỏi nhau: “Tại sao có tiếng la hét inh ỏi đó trong trại quân Hy-bá?” Khi biết là Rương Giao Ước của CHÚA vừa đến trại, người Phi-li-tin hoảng sợ vì họ nói: “Các vị thần vừa đến trại!” Rồi họ kêu lên: “Chúng ta nguy rồi! Trước đây, chưa hề có chuyện như thế này xảy ra bao giờ! Chúng ta nguy rồi! Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi tay các thần hùng mạnh này? Chính các thần này đã giáng đủ mọi tai họa xuống dân Ai-cập trong sa mạc. Nào, anh em Phi-li-tin, hãy can đảm lên! Hãy tỏ chí nam nhi, kẻo anh em phải làm nô lệ cho bọn Hy-bá như chúng đã làm nô lệ cho anh em! Hãy tỏ chí nam nhi, hãy chiến đấu!”Quân Phi-li-tin chiến đấu. Quân Y-sơ-ra-ên thua trận, ai nấy chạy trốn về lều mình. Đó là một thảm bại nặng nề: ba mươi ngàn bộ binh Y-sơ-ra-ên tử trận. Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời bị đánh cướp; Hóp-ni và Phi-nê-a, hai người con của ông Hê-li cũng tử trận.Thầy Tế Lễ Hê-li Qua ĐờiMột người thuộc bộ tộc Bên-gia-min chạy từ trận địa về đến Si-lô nội trong ngày ấy. Anh xé rách quần áo và rải bụi đất lên đầu để biểu lộ nỗi buồn. Khi anh đến nơi, ông Hê-li đang ngồi ngóng tin trên ghế cạnh bên đường, vì ông hồi hộp lo ngại cho Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. Khi anh vào thành báo tin, cả thành đều gào lên thất thanh. Ông Hê-li nghe tiếng kêu gào hỏi: “Chuyện gì mà ồn ào vậy?” Anh vội vàng đến báo tin cho ông Hê-li. Ông Hê-li lúc bấy giờ đã chín mươi tám tuổi. Mắt ông đã mờ, không còn thấy được nữa. Anh thưa với ông Hê-li: “Con mới về từ chiến trường. Con vừa chạy thoát ngày hôm nay.” Ông Hê-li hỏi: “Có chuyện gì xảy ra vậy con?” Người đem tin đáp: “Y-sơ-ra-ên bị Phi-li-tin đánh bại, phải bỏ chạy. Quân ta thiệt hại nặng nề. Hai người con của ông, Hóp-ni và Phi-nê-a, cũng tử trận, và Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất.” Khi anh nhắc đến Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, ông Hê-li đang ngồi trên ghế bên cổng, té quật ngửa ra sau, đập bể gáy và chết, vì ông đã già lại nặng nề. Ông lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên trong bốn mươi năm.Vợ Góa Của Phi-nê-a Qua ĐờiCon dâu của ông là vợ của Phi-nê-a đang có thai, gần đến ngày sanh. Nghe tin Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất, cùng ông gia và chồng đều qua đời, cơn đau đẻ bỗng quặn lên, chị gập người xuống và rặn đẻ. Trong khi chị hấp hối, những người đàn bà đỡ đẻ cho chị nói: “Chị an tâm; chị sanh được con trai.” Nhưng chị không đáp lời nào, cũng không để tâm. Chị gọi tên đứa bé là Y-ca-bốt, có nghĩa là “vinh quang của Đức Chúa Trời đã rời hỏi Y-sơ-ra-ên,” ngụ ý muốn nói về Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất, và về sự chết của ông gia và chồng chị. Chị nói: “Vinh quang của Đức Chúa Trời đã rời khỏi Y-sơ-ra-ên vì Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời bị cướp mất.”Rương Giao Ước Trong Xứ Phi-li-tinSau khi người Phi-li-tin cướp được Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, họ khiêng rương từ Ê-bên Ê-xe về Ách-đốt. Rồi họ khiêng rương vào trong miếu thờ thần của họ là Đa-gôn, đặt rương bên tượng thần Đa-gôn. Sáng sớm hôm sau, dân thành Ách-đốt thức dậy, thấy tượng Đa-gôn té nằm sấp mặt xuống đất trước Rương Giao Ước của CHÚA. Họ đỡ tượng Đa-gôn lên, dựng vào chỗ cũ. Sáng sớm hôm sau, họ thức dậy, lại thấy tượng Đa-gôn té nằm sấp xuống đất trước Rương Giao Ước của CHÚA, nhưng lần này chỉ còn mỗi cái thân, còn đầu và hai bàn tay bị chặt đứt, nằm trên ngưỡng cửa. Vì thế, cho đến ngày nay, các thầy cúng tế phục dịch thần Đa-gôn và tất cả những người vào miếu thờ Đa-gôn đều tránh bước lên ngưỡng cửa miếu tại Ách-đốt.Bàn tay CHÚA đè nặng trên dân thành Ách-đốt. Ngài gieo kinh hoàng, khiến cho họ và dân vùng phụ cận mắc bệnh dịch hạch.5:6 Theo Qere: bệnh trĩKhi dân thành Ách-đốt thấy việc xảy ra, họ nói với nhau: “Chúng ta không thể nào để Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên ở lại đây với chúng ta được nữa, vì Ngài đang trừng phạt chúng ta và thần Đa-gôn của chúng ta.” Họ sai người mời tất cả các nhà lãnh đạo5:8 Ctd: các vua Phi-li-tin họp lại và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì với Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên?” Các nhà lãnh đạo đáp: “Anh chị em hãy chuyển Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên sang thành Gát.” Vậy họ chuyển Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên đi. Nhưng sau khi rương được chuyển về thành Gát, CHÚA trừng phạt dân trong thành, khiến họ sợ hãi bấn loạn. Mọi người trong thành, từ nhỏ đến lớn, đều nổi hạch.Họ liền chuyển Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời đến Éc-rôn. Rương của Đức Chúa Trời vừa đến nơi, dân thành Éc-rôn kêu than: “Họ chuyển Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên đến đây để giết chúng ta và gia đình chúng ta!” Họ sai người mời tất cả các nhà lãnh đạo Phi-li-tin họp lại và nói: “Xin các ông chuyển Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên về nước của họ đi, kẻo rương giết chúng tôi và gia đình chúng tôi.” Vì cả thành đều náo loạn kinh hoàng. Dân chúng tại đó cũng bị Đức Chúa Trời trừng phạt nặng nề. Người nào chưa chết cũng nổi hạch. Tiếng kêu than trong thành vang đến tận trời.Người Phi-li-tin Trả Rương Giao Ước VềSau khi Rương Giao Ước của CHÚA ở trong xứ người Phi-li-tin được bảy tháng, người Phi-li-tin mời các thầy cúng tế và các thầy bói của họ đến, hỏi: “Chúng tôi phải làm gì với Rương Giao Ước của CHÚA? Xin cho chúng tôi biết chúng tôi phải làm gì gởi kèm theo khi chúng tôi trả rương về chỗ cũ?” Các thầy cúng tế và các thầy bói đáp: “Nếu anh chị em muốn gởi Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên về trả cho họ, xin đừng gởi rương về không. Anh chị em nên nhớ gởi cho Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên một lễ vật chuộc tội. Bấy giờ anh chị em sẽ được chữa lành và sẽ biết tại sao Ngài đã không ngừng trừng phạt anh chị em.” Người Phi-li-tin hỏi: “Chúng tôi phải gửi lễ vật gì cho Ngài?” Các thầy cúng tế và các thầy bói đáp: “Anh chị em hãy gởi, tùy theo số các nhà lãnh đạo Phi-li-tin, năm hình mụt hạch bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, vì toàn dân và các nhà lãnh đạo đều chịu cùng một tai họa. Anh chị em nên làm hình các mụt hạch và hình các con chuột phá hoại đất đai, và anh chi em phải dâng vinh quang lên Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên. Biết đâu Ngài sẽ nương tay, không trừng phạt anh chị em, các thần và đất đai của anh chị em nữa. Xin anh chị em đừng cứng lòng như dân Ai-cập và Pha-ra-ôn. Anh chị em nhớ Ngài hành hạ chúng thế nào, đến nỗi chúng phải để dân Y-sơ-ra-ên ra đi.Bây giờ, anh chị em hãy đóng một chiếc xe mới, bắt hai con bò mẹ đang cho bú, chưa hề mang ách, thắng vào xe, nhưng phải dẫn bò con về chuồng, không cho chúng lẽo đẽo theo mẹ. Rồi anh chị em khiên Rương Giao Ước của CHÚA đặt lên xe. Bên cạnh rương, anh chị em đặt chiếc hộp đựng các lễ vật bằng vàng mà anh chị em dâng lên Ngài để xin tạ lỗi. Đoạn, anh chị em thả cho bò tự kéo xe đi. Anh chị em theo dõi sẽ thấy: nếu bò đi về biên giới, theo hướng Bết Se-mét, thì chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã giáng tai họa lớn lao này xuống chúng ta; còn nếu bò đi hướng khác, chúng ta sẽ biết là không phải Ngài trừng phạt chúng ta, nhưng tai họa ngẫu nhiên xảy ra.”Người Phi-li-tin làm theo lời chỉ dẫn. Họ bắt hai con bò mẹ đang cho bú thắng vào xe, và nhốt bò con trong chuồng. Họ đặt Rương Giao Ước của CHÚA lên xe, cùng với chiếc hộp đựng mấy con chuột bằng vàng và hình các mụt hạch.6:11 Nt: mụt trĩHai con bò đi thẳng một đường về hướng Bết Se-mét, đi trên đường cái duy nhất vừa đi vừa rống, không quay sang bên phải hoặc bên trái. Các nhà lãnh đạo Phi-li-tin đi theo sau xe cho đến biên giới Bết Se-mét.Dân thành Bết Se-mét đang gặt lúa mì trong thung lũng, bỗng họ ngước mắt lên, thấy Rương Giao Ước, liền vui mừng quá đỗi. Chiếc xe vào đến ruộng của ông Giô-suê, người Bết Se-mét, và dừng lại. Tại đó, có một tảng đá lớn. Dân chúng bửa xe làm củi và dâng hai con bò cái làm tế lễ toàn thiêu lên cho CHÚA, vì người Lê-vi đã khiêng Rương Giao Ước của CHÚA cùng với chiếc hộp cạnh bên đựng các lễ vật bằng vàng xuống khỏi xe, đặt trên tảng đá lớn. Người Bết Se-mét dâng tế lễ toàn thiêu cùng với các sinh tế khác lên CHÚA trong ngày hôm đó. Năm nhà lãnh đạo Phi-li-tin nhìn thấy mọi việc, rồi trở về Éc-rôn nội ngày hôm đó.Sau đây là năm mụt hạch bằng vàng người Phi-li-tin dâng lên CHÚA làm lễ vật chuộc tội: một cho thành Ách-đốt, một cho thành Ga-xa, một cho thành Ách-ca-lôn, một cho thành Gát, và một cho thành Éc-rôn. Số các con chuột bằng vàng cũng theo tổng số các thành thuộc quyền năm nhà lãnh đạo Phi-li-tin, từ thành trì kiên cố đến các làng bỏ ngỏ ở miền quê. Tảng đá lớn, nơi người ta đặt Rương Giao Ước của CHÚA, hiện nay vẫn còn trong ruộng của ông Giô-suê người Bết Se-mét.CHÚA phạt dân thành Bết Se-mét vì họ nhìn vào bên trong Rương Giao Ước của CHÚA. Ngài diệt bảy mươi người trong số họ.6:19 Nt: thêm “năm mươi ngàn người.” Dân chúng than khóc vì CHÚA trừng phạt họ nặng nề. Dân thành Bết Se-mét bàn tán: “Ai có thể đứng chầu trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời thánh khiết này? Chúng ta sẽ đem Rương Giao Ước của Ngài đi khỏi chúng ta đến với ai?” Họ sai sứ đến nói với dân thành Ki-ri-át Giê-a-rim: “Người Phi-li-tin đã trả Rương Giao Ước của CHÚA về đây rồi. Xin anh chị em xuống khiêng rương về.”Dân thành Ki-ri-át Giê-a-rim đến khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi; họ biệt riêng Ê-lê-a-sa, con trai ông, để trông nom Rương Giao Ước của CHÚA.Sa-mu-ên Xét Xử Dân Y-sơ-ra-ênKể từ ngày Rương Giao Ước được khiêng về đặt trong thành Ki-ri-át Giê-a-rim, một thời gian dài trôi qua: thấm thoát đã hai mươi năm. Toàn dân Y-sơ-ra-ên khóc lóc quay về với CHÚA. Ông Sa-mu-ên nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Nếu anh chị em thật lòng muốn quay về cùng CHÚA, anh chị em phải dẹp bỏ các thần tượng ngoại bang, và các tượng nữ thần Át-tạc-tê nữa. Anh chị em phải hướng lòng về CHÚA, phụng sự một mình Ngài mà thôi; bấy giờ Ngài sẽ giải cứu anh chị em khỏi tay người Phi-li-tin.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên dẹp bỏ các tượng thần Ba-anh và Át-tạc-tê, chỉ phụng sự một mình CHÚA thôi.Ông Sa-mu-ên bảo tiếp: “Anh chị em hãy tập họp toàn dân Y-sơ-ra-ên lại tại Mích-ba, để tôi cầu nguyện CHÚA cho anh chị em.” Dân chúng tụ họp lại tại Mích-ba. Họ múc nước, đổ ra trước mặt CHÚA. Trọn ngày ấy, họ kiêng ăn và xưng tội: “Chúng con có phạm tội với CHÚA.” Và tại đó, tại Mích-ba, ông Sa-mu-ên trở nên nhà lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên.Khi người Phi-li-tin nghe tin dân Y-sơ-ra-ên tụ họp tại Mích-ba, các nhà lãnh đạo của họ ra quân tiến đánh Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên nghe tin ấy, hoảng sợ. Họ nói với ông Sa-mu-ên: “Xin ông vì chúng tôi không ngừng kêu cầu CHÚA, là Đức Chúa Trời chúng tôi, xin Ngài giải cứu chúng tôi khỏi tay người Phi-li-tin.” Ông Sa-mu-ên bắt một con chiên sữa làm tế lễ toàn thiêu dâng lên CHÚA.Ông kêu xin CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên, và CHÚA nhậm lời ông.Trong khi ông Sa-mu-ên dâng tế lễ toàn thiêu, người Phi-li-tin kéo quân đến đánh Y-sơ-ra-ên, nhưng CHÚA cho trời gầm sấm nổ vang rền, khiến cho quân Phi-li-tin chạy tán loạn và bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại. Quân Y-sơ-ra-ên từ thành Mích-ba chạy ra, rượt theo quân Phi-li-tin và đánh giết họ cho đến một nơi phía dưới thành Bết-ca. Ông Sa-mu-ên dựng một tảng đá giữa Mích-ba và Sen7:12 Hy-bá có nghĩa là “Cái Răng.” Ông nói: “CHÚA đã cứu giúp chúng ta đến chốn này.” Và ông gọi tên tảng đá là Ê-bên Ê-xe.7:12 Hy-bá: có nghĩa là “tảng đá cứu giúp.”Người Phi-li-tin thất trận nhục nhã. Trọn đời ông Sa-mu-ên, CHÚA ngăn cản, không cho người Phi-li-tin xâm lấn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Người Phi-li-tin trả lại các thành họ chiếm đóng, giữa Éc-rôn và Gát, cho dân Y-sơ-ra-ên. Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên giải phóng địa phận các thành ấy khỏi sự cai trị của người Phi-li-tin. Cũng có hòa bình giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân A-mô-rít.7:14 Cũng gọi là Ca-na-anÔng Sa-mu-ên lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi ông qua đời. Mỗi năm, ông đi vòng qua các thành Bê-tên, Ghinh-ganh, Mích-ba, và xét xử dân Y-sơ-ra-ên trong các thành ấy. Rồi ông trở về nhà ở Ra-ma. Tại đó ông cũng xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Ông dựng một bàn thờ cho CHÚA tại đó.Sau-lơ Làm VuaKhi về già, ông Sa-mu-ên cho các con trai mình lãnh đạo và xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Người con trưởng tên Giô-ên, và người con thứ tên A-bi-gia; cả hai điều hành việc xét xử tại Bê-e Sê-ba. Nhưng các con không noi gương cha mình; chúng tham tiền, ăn hối lộ và bóp méo công lý.Do đó, tất cả các trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại, cùng nhau đến nhà ông Sa-mu-ên tại Ra-ma. Họ thưa với ông: “Ông đã cao tuổi, mà các con ông lại không noi theo gương ông. Vậy xin ông lập cho chúng tôi một vua để cai trị chúng tôi, y như tất cả các dân tộc khác đều có vua cai trị.”Ông Sa-mu-ên rất buồn khi nghe họ xin một vua. Ông liền cầu nguyện với CHÚA. CHÚA đáp lời ông: “Con hãy nghe theo mọi lời chúng xin. Chúng không gạt bỏ con đâu, nhưng chúng gạt bỏ Ta, không cho Ta làm vua chúng nữa. Từ ngày Ta giải cứu chúng ra khỏi xứ Ai-cập cho đến nay, chúng luôn luôn từ bỏ Ta và thờ lạy các tà thần; bây giờ chúng đối xử với con y như chúng đối xử với Ta. Vậy bây giờ, con cứ nghe theo lời chúng, nhưng con phải nhớ cảnh cáo chúng, cho chúng biết rõ những quyền lợi mà bất kỳ vua nào cai trị chúng cũng đòi hỏi.”Quyền Lợi Của VuaÔng Sa-mu-ên thuật lại mọi lời CHÚA phán dạy cho những người xin ông lập vua cho họ. Ông khuyến cáo họ: “Bất kỳ một vua nào cai trị anh chị em cũng sẽ đòi hỏi những quyền lợi như sau. Con trai anh chị em sẽ bị bắt lính, một số sẽ đánh xe chiến mã, một số cưỡi ngựa chiến, một số chạy bộ trước xe chiến mã của vua. Vua sẽ lập một số lên làm quan, chỉ huy 1,000 người, hoặc 50 người. Một số sẽ cày ruộng cho vua, gặt lúa cho vua. Một số sẽ rèn vũ khí chiến tranh, một số khác lo trang bị xe chiến mã. Vua sẽ bắt con gái anh chị em pha chế dầu thơm, hoặc nấu ăn, hoặc nướng bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn ô-liu tốt nhất của anh chị em, vua sẽ lấy phân phát cho cận thần. Vua sẽ lấy một phần mười lúa thóc và huê lợi vườn nho của anh chị em mà phát cho các quan trong triều và cận thần của vua. Vua sẽ bắt tôi trai tớ gái, các thanh niên mạnh khỏe nhất8:16 LXX: bò tốt nhất và mấy con lừa của anh chị em làm việc cho vua. Vua cũng sẽ lấy một phần mười bầy chiên dê của anh chị em. Tóm lại, chính anh chị em sẽ làm tôi mọi cho vua. Đến lúc ấy, anh chị em sẽ than khóc với CHÚA về vua mà anh chị em đã chọn cho mình, nhưng Ngài sẽ không đáp lời anh chị em kêu cầu.”Nhưng dân chúng không chịu nghe theo lời khuyến cáo của ông Sa-mu-ên. Họ đáp: “Mặc kệ. Chúng tôi muốn có vua. Chúng tôi muốn giống như tất cả các dân tộc khác, có vua cai trị, cầm đầu chúng tôi khi ra trận, và đánh giặc cho chúng tôi.”Ông Sa-mu-ên nghe mọi điều chúng nói xong liền trình lên CHÚA. CHÚA bảo ông: “Con cứ nghe theo lời chúng, lập cho chúng một vua.” Ông Sa-mu-ên bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Anh chị em ai nấy hãy trở về thành mình.”Sau-lơ Đi Tìm LừaThuở ấy, trong xứ Bên-gia-min, có ông Kích là người giàu có và quyền thế. Ông Kích là con của ông A-bi-ên, cháu ông Xê-rô, chắt ông Bê-cô-rát, chít ông A-phia, thuộc bộ tộc Bên-gia-min. Con trai ông Kích là Sau-lơ, một thanh niên khôi ngô tuấn tú. Người Y-sơ-ra-ên không có ai đẹp trai bằng Sau-lơ. Anh cao hơn mọi người từ vai trở lên.Ông Kích có mấy con lừa cái đi lạc. Ông bảo con mình là Sau-lơ: “Con hãy đi tìm mấy con lừa cái cho ba. Con nhớ dẫn theo một người đầy tớ.” Họ đi khắp vùng đồi núi Ép-ra-im và địa phận Sa-li-sa, nhưng chưa tìm được; họ đi qua vùng Sa-lim, cũng không thấy gì; họ đi khắp xứ Bên-gia-min, cũng chẳng tìm được.Khi đến vùng Xu-phơ, Sau-lơ nói với người đầy tớ theo mình: “Thôi, chúng ta hãy trở về đi, kẻo ba tôi hết lo về mấy con lừa cái lại lo cho chúng ta.” Người đầy tớ đáp: “Trong thành kia có một người của Đức Chúa Trời. Ông được mọi người kính trọng, vì điều gì ông nói cũng xảy ra đúng như vậy. Chúng ta nên đến đó gặp ông ngay bây giờ. Biết đâu ông ấy sẽ chỉ dạy chúng ta nên tìm lừa nơi nào.”Sau-lơ hỏi: “Nếu đi, chúng ta có gì để biếu ông? Lương thực đem theo trong bao đã cạn rồi. Chúng ta không có quà gì để biếu người của Đức Chúa Trời. Chúng ta còn gì nữa đâu?” Người đầy tớ đáp lời Sau-lơ: “Tôi có sẵn trong tay một chỉ bạc đây, tôi sẽ đem biếu người của Đức Chúa Trời. Rồi ông sẽ chỉ chúng ta nên đi đường nào.” Thuở trước, người Y-sơ-ra-ên muốn tìm cầu ý Đức Chúa Trời thường nói: “Chúng ta hãy đi gặp ông tiên kiến,” vì thuở ấy họ gọi là tiên kiến, người mà ngày nay chúng ta gọi là tiên tri. Sau-lơ bảo người đầy tớ: “Được lắm. Chúng ta đi thôi.” Và họ đi đến thành, nơi người của Đức Chúa Trời ở.Đang khi lên dốc, họ gặp mấy cô gái từ thành đi xuống múc nước, và hỏi họ: “Ông tiên kiến có ở đây không?” Các cô đáp: “Có. Ông ấy vừa mới đến trước các anh. Các anh đi mau lên; ông ấy vừa đến nơi vì hôm nay là ngày dân trong thành dâng tế lễ trên đồi. Các anh sẽ gặp ông ngay khi bước vào thành, trước khi ông lên đồi dự tiệc. Không ai được phép ăn trước khi ông đến, vì ông phải tạ ơn trước, rồi sau đó khách mới ăn. Các anh nên đi ngay bây giờ, các anh sẽ gặp ông ngay.”Sau-lơ Gặp Ông Sa-mu-ênSau-lơ và người đầy tớ tiếp tục lên đường. Khi vào thành, họ gặp ông Sa-mu-ên đi ra về phía họ, để lên đồi dự lễ.Thật ra, một ngày trước khi Sau-lơ đến, CHÚA có tỏ cho ông Sa-mu-ên biết: “Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ sai một người từ xứ Bên-gia-min đến gặp con. Con sẽ xức dầu cho người ấy chỉ huy dân Y-sơ-ra-ên Ta. Người ấy sẽ giải phóng dân Ta ra khỏi tay quân Phi-li-tin, vì Ta đã thấy nỗi khốn khổ của dân Ta,9:16 Dịch theo LXX; nt: thấy dân Ta và tiếng kêu than của họ đã thấu đến Ta.” Khi ông Sa-mu-ên vừa thấy Sau-lơ, CHÚA bảo ông: “Đây là người Ta báo trước cho con biết. Người sẽ cai trị dân Ta.”Sau-lơ đến gần ông tại cổng thành và thưa: “Xin ông cho con biết ông tiên kiến ở đâu?” Ông Sa-mu-ên đáp: “Chính ta đây, Con hãy đi trước ta đến đồi dự lễ. Hôm nay các con sẽ dùng bữa với ta. Sáng mai ta sẽ giải đáp mọi điều thắc mắc trong lòng con rồi cho con về. Còn về mấy con lừa cái mà con đã mất ba ngày nay, con đừng bận tâm nữa, vì chúng đã tìm được rồi. Dân Y-sơ-ra-ên ngưỡng vọng ai,9:20 Ctd: ai sẽ được phần quí trọng nhất trong Y-sơ-ra-ên? nếu chẳng phải con và toàn thể nhà cha con?”Sau-lơ đáp: “Con thuộc về bộ tộc Bên-gia-min, bộ tộc nhỏ nhất trong Y-sơ-ra-ên, và tộc con là tộc ít người nhất trong bộ tộc Bên-gia-min. Sao ông lại nói với con như vậy?”Ông Sa-mu-ên dẫn Sau-lơ và đầy tớ vào trong một phòng lớn, cho họ ngồi chỗ danh dự tại bàn có ba mươi quan khách. Ông Sa-mu-ên bảo người đầu bếp: “Con hãy dọn lên phần thịt ta giao cho và dặn con để riêng ra.”Người đầu bếp dọn lên cái đùi và phần trên đùi9:24 Tg, Aram: đùi và cái đuôi đặt trước mặt Sau-lơ. Ông Sa-mu-ên bảo Sau-lơ: “Phần dọn ra trước mặt con đây là phần ta dặn để dành riêng cho con trong dịp này. Con hãy ăn cùng với các quan khách ta mời.”Thế là Sau-lơ dùng bữa chung với ông Sa-mu-ên hôm ấy. Đoạn họ rời nơi thờ phượng trên đồi, trở về thành. Người ta trải giường cho Sau-lơ9:25 Dịch theo LXX; nt: ông Sa-mu-ên tiếp chuyện Sau-lơ trên nóc nhà bằng. Và Sau-lơ nằm ngủ.9:26 Dịch theo LXX; nt: họ dậy sớmÔng Sa-mu-ên Xức Dầu Cho Sau-lơ Làm VuaVừa lúc rạng đông, ông Sa-mu-ên gọi Sau-lơ trên mái nhà: “Hãy thức dậy, ta đưa con lên đường.” Sau-lơ thức dậy. Ông Sa-mu-ên đi với Sau-lơ ra đường cái. Đang khi đi xuống ven thành, ông Sa-mu-ên nói với Sau-lơ: “Con bảo đầy tớ con đi trước chúng ta đi.” Đầy tớ đi qua trước. Ông Sa-mu-ên bảo tiếp: “Bây giờ, con hãy dừng lại đây, để ta truyền cho con lời của Đức Chúa Trời.”Ông Sa-mu-ên cầm ve dầu đổ lên đầu Sau-lơ, rồi ông hôn anh và nói: “CHÚA đã xức dầu cho con để chỉ huy dân Ngài.10:1 Nt: Cơ nghiệp của NgàiHôm nay, sau khi con từ giã ta ra đi, con sẽ gặp hai người đàn ông bên mộ Ra-chên tại Xên-xa, thuộc địa phận Bên-gia-min. Họ sẽ nói với con: ‘Mấy con lừa cái anh đi tìm đã kiếm được rồi. Bây giờ cha anh không còn lo lắng về mấy con lừa nữa, nhưng lại lo cho các anh.’ Ông cứ hỏi: ‘Làm sao tìm được con trai tôi?’Từ đó, con tiếp tục đi, và khi đến cây sồi tại Tha-bô, con sẽ gặp ba người đàn ông trên đường đến Bê-tên thờ phượng Đức Chúa Trời, một người mang theo ba con dê con, người kia ba ổ bánh, và người nọ một bầu rượu. Họ sẽ chào con và tặng con hai ổ bánh. Con hãy nhận bánh của họ.Sau đó, con đi đến Ghi-bê-a Ê-lô-him10:5 Ctd: Đồi của Đức Chúa Trời nơi có người Phi-li-tin đóng quân. Khi vào thành, con sẽ gặp một đoàn tiên tri đang đi xuống từ nơi thờ phượng trên đồi. Họ vừa hăng say nhảy múa vừa nói tiên tri. Đi trước họ, người thì gảy đàn hạc, đàn lia, kẻ thì lúc lắc trống nhỏ, hoặc thổi sáo. Thần linh của CHÚA sẽ chiếm ngự con, con cũng sẽ hăng say nhảy múa và nói tiên tri cùng với họ; con sẽ trở thành một người khác. Khi các điềm này xảy ra, con sẽ biết có Đức Chúa Trời ở với con. Hãy làm theo mọi điều Ngài chỉ dẫn.Kế đến, con hãy đi trước ta xuống Ghinh-ganh. Ta cũng sẽ xuống đó với con để dâng tế lễ toàn thiêu và tế lễ ăn mừng. Con hãy ở đó bảy ngày chờ ta đến, ta sẽ chỉ dạy con điều con phải làm.”Vừa khi Sau-lơ từ giã ông Sa-mu-ên, quay lưng đi, Đức Chúa Trời ban cho anh một tấm lòng mới. Mọi điềm ông Sa-mu-ên báo trước đều xảy ra nội trong ngày đó. Sau-lơ và người đầy tớ vừa đến Ghi-bê-a thì gặp một đoàn tiên tri. Thần linh của Đức Chúa Trời chiếm ngự Sau-lơ, anh hăng say nhảy múa và nói tiên tri cùng với họ. Mọi người đã từng biết Sau-lơ trước kia, thấy anh nói tiên tri chung với các tiên tri liền hỏi nhau: “Điều gì đã xảy đến cho con trai ông Kích? Sau-lơ cũng trở thành tiên tri nữa sao?”Một người ở vùng đó hỏi thêm: “Còn mấy vị kia, cha họ là ai?” Từ đó có câu ngạn ngữ: “Sau-lơ cũng trở thành tiên tri nữa sao?” Sau khi nói tiên tri xong, Sau-lơ lên chỗ thờ phượng trên đồi.Chú của Sau-lơ hỏi Sau-lơ và người đầy tớ của anh ta: “Các con đi đâu?” Sau-lơ đáp: “Chúng con đi tìm mấy con lừa cái nhưng không tìm được, nên đến hỏi ông Sa-mu-ên.” Người liền hỏi tiếp: “Kể cho chú biết ông Sa-mu-ên nói gì với các con?” Sau-lơ đáp: “Ông nói lừa tìm được rồi.” Nhưng Sau-lơ không kể cho chú mình những gì ông Sa-mu-ên nói về việc vua chúa.Sau-lơ Được CHÚA Chọn Làm VuaÔng Sa-mu-ên triệu tập dân Y-sơ-ra-ên đến với CHÚA tại Mích-ba. Ông bảo họ: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Chính Ta đã đem các con, dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi Ai-cập. Ta đã giải cứu các con khỏi quyền lực của Ai-cập, và của mọi nước10:18 Nt: vương quốc áp bức các con.’ Nhưng ngày nay, anh chị em gạt bỏ Đức Chúa Trời của anh chị em, dù chính Ngài đã giải cứu anh chị em khỏi mọi tai ương hoạn nạn, khi anh chị em nói với tôi: ‘xin cho chúng tôi một vua.’ Vậy bây giờ, anh chị em hãy trình diện CHÚA, đứng chầu theo từng bộ tộc và tộc.”Ông Sa-mu-ên bảo tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên đến gần; ông rút thăm, và CHÚA chỉ định bộ tộc Bên-gia-min. Ông bảo các tộc trong bộ tộc Bên-gia-min đến gần, và tộc Mát-ri được chỉ định. Kế đến,10:21 LXX thêm vào: ông bảo những người đàn ông trong tộc Mát-ri đến gần Sau-lơ, con ông Kích, được chỉ định. Họ tìm Sau-lơ nhưng không gặp. Họ lại cầu hỏi CHÚA: “Còn có người nào khác sẽ đến đây không?” CHÚA đáp: “Kìa, Sau-lơ trốn giữa đống đồ đạc.” Họ chạy đến, đem Sau-lơ về trình diện dân chúng. Anh đứng cao hơn mọi người từ vai trở lên. Ông Sa-mu-ên bảo toàn dân: “Anh chị em hãy nhìn xem! Đây là người CHÚA chọn. Trong toàn dân, không có ai khác bằng anh cả.” Toàn dân tung hô: “Vua vạn tuế!”Đoạn ông Sa-mu-ên giải thích cho dân chúng biết các quyền hạn và trách nhiệm của vua; ông ghi chép lại trong một quyển sách, đem đặt trong Nơi Thánh, trước mặt CHÚA. Sau cùng, ông bảo mọi người ai nấy về nhà mình. Sau-lơ cũng trở về nhà mình tại Ghi-bê-a. Những dũng sĩ được Đức Chúa Trời cảm động đi theo Sau-lơ. Nhưng bọn côn đồ chê bai: “Anh chàng này làm gì mà cứu giúp chúng ta được?” Bọn chúng khinh dể Sau-lơ, không đem quà cáp gì cho người cả. Tuy nhiên, Sau-lơ vẫn điềm tĩnh yên lặng.Sau-lơ Đánh Bại Dân Am-mônNa-hách, vua Am-môn, cầm quân lên bao vây thành Gia-bết, trong địa phận Ga-la-át. Mọi người trong thành Gia-bết nài xin vua Na-hách: “Xin vua ký vào hiệp ước với chúng tôi, chúng tôi sẽ phục dịch vua.” Nhưng Na-hách, vua Am-môn đáp: “Ta sẽ ký hiệp ước với các ngươi nếu các ngươi chịu cho ta móc con mắt phải của mỗi người trong các ngươi, và như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị sỉ nhục.”Các trưởng lão thành Gia-bết cố nài nỉ: “Xin vua hoãn cho chúng tôi bảy ngày, để chúng tôi sai sứ giả đi khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên; nếu không có ai cứu giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ đầu hàng vua.”Khi các sứ giả đến thành Ghi-bê-a, nơi Sau-lơ sinh sống, và kể lại sự việc cho dân trong thành nghe, mọi người đều khóc òa lên.Ngay lúc ấy, Sau-lơ từ ngoài đồng về tới, theo sau đàn bò. Anh hỏi: “Có chuyện gì mà dân chúng khóc như vậy?” Họ thuật lại cho anh nghe sự tình của thành Gia-bê. Sau-lơ vừa nghe xong, Thần Linh của Đức Chúa Trời chiếm ngự anh, anh bừng bừng nổi giận. Anh bắt một cặp bò, xả ra từng miếng, rồi gởi các sứ giả đi khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, kèm theo sứ điệp: “Người nào không theo Sau-lơ và Sa-mu-ên ra trận, bò của người đó sẽ bị xả ra từng mảnh y như vậy.” CHÚA khiến dân chúng kinh sợ, họ đồng lòng hiệp ý như một người, kéo nhau ra trình diện. Sau-lơ tập họp chúng tại Bê-xéc: có 300,000 người thuộc các bộ tộc phía bắc,11:8 Nt: Y-sơ-ra-ên và 30,000 người thuộc bộ tộc Giu-đa.Họ bảo các sứ giả đến từ thành Gia-bết, tỉnh Ga-la-át: “Các anh nói với dân trong thành như vầy: ‘Ngày mai, khi mặt trời vừa nóng, anh chị em sẽ được giải cứu.’ ” Khi các sứ giả đem tin về cho dân thành Gia-bết, họ mừng rỡ, và nói với vua Na-hách: “Ngày mai chúng tôi ra đầu hàng, xin vua đối xử với chúng tôi thế nào tùy ý.”Đêm ấy, Sau-lơ chia quân ra thành ba cánh, đột nhập trại quân Am-môn lúc tờ mờ sáng, đánh giết cho đến khi trời nóng. Địch quân còn sống sót chạy tán loạn, mỗi người một ngả.Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên thưa với ông Sa-mu-ên: “Ai nói: ‘Sau-lơ mà làm vua chúng ta sao?’ Hãy đem những người đó ra, để chúng tôi xử tử họ.” Nhưng Sau-lơ đáp: “Không ai phải bị xử tử ngày hôm nay, vì hôm nay là ngày CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng.”Ông Sa-mu-ên bảo dân chúng: “Chúng ta hãy đến Ghinh-ganh lập lại lễ tấn phong Sau-lơ làm vua.” Mọi người đều đến Ghinh-ganh, và tại đó họ làm lễ tấn phong Sau-lơ làm vua trước mặt CHÚA, tại Ghinh-ganh. Tại đó, họ dâng tế lễ liên hoan trước mặt CHÚA, và tại đó, vua Sau-lơ và toàn dân Y-sơ-ra-ên nhộn nhịp ăn mừng.Lời Dặn Dò Cuối Cùng Của Ông Sa-mu-ênÔng Sa-mu-ên bảo toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Tôi đã nghe và làm theo mọi điều anh chị em yêu cầu. Tôi đã lập một vua lên cai trị anh chị em. Kể từ nay, chính vua sẽ lãnh đạo anh chị em. Còn tôi đã già, tóc đã bạc; các con trai tôi hiện vẫn sống giữa anh chị em. Tôi đã lãnh đạo anh chị em từ khi tôi còn trẻ cho đến nay. Bây giờ tôi đứng dậy trước mặt anh chị em. Nếu tôi có làm điều gì sai quấy, xin anh chị em tố cáo tôi trước mặt CHÚA và trước mặt vua được Ngài xức dầu. Tôi có bắt bò của ai không? Bắt lừa của ai không? Tôi có bóc lột người nào không? Tôi có hà hiếp ai không? Tôi có nhận hối lộ của ai để tự bịt mắt mình, để mặc họ muốn làm gì tùy ý không? Nếu có, tôi xin đền bù lại cho anh chị em.”Dân chúng đáp: “Ông chẳng hề bóc lột hoặc hà hiếp chúng tôi. Ông cũng chẳng hề lấy của ai vật gì.”Ông bảo chúng: “Ngày hôm nay, CHÚA và vua được Ngài xức dầu làm chứng rằng anh chị em không tìm thấy nơi tôi một lỗi nào.” Họ đáp: “Xin CHÚA làm chứng cho chúng ta.”Ông Sa-mu-ên bảo dân chúng: “CHÚA là Đấng chọn ông Môi-se và ông A-rôn; chính Ngài là Đấng đem tổ phụ anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập. Bây giờ xin anh chị em đứng chầu trước mặt CHÚA, để tôi xét xử anh chị em dựa vào mọi việc quyền năng CHÚA làm để giải cứu anh chị em và tổ phụ anh chị em.Sau khi ông Gia-cốp đến Ai-cập, tổ phụ anh chị em kêu cầu CHÚA, CHÚA sai ông Môi-se và ông A-rôn đem tổ phụ anh chị em ra khỏi Ai-cập và giúp họ định cư trong xứ này. Nhưng họ lại quên CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nên Ngài trao họ vào tay Xi-xê-ra, tổng chỉ huy quân đội thành Hát-xo, vào tay người Phi-li-tin, và vào tay vua Mô-áp, cho những kẻ thù này đánh bại họ. Họ van xin CHÚA: ‘Chúng con có tội, vì chúng con từ bỏ CHÚA và thờ phụng các thần tượng Ba-anh và Át-tạc-tê. Giờ đây, xin Ngài giải cứu chúng con khỏi tay quân thù để chúng con phụng thờ Ngài.’ CHÚA sai Giê-ru-ba-anh, Bê-đan,12:11 LXX và Syr: Ba-rác Giép-thê, và Sa-mu-ên. Ngài giải cứu anh chị em khỏi tay quân thù chung quanh, cho anh chị em sống yên ổn.Nhưng khi thấy Na-hách, vua dân Am-môn, đem quân tới đánh, anh chị em bảo tôi: ‘Không được, chúng tôi phải có một vua cai trị chúng tôi,’ trong khi CHÚA, là Đức Chúa Trời, chính Ngài là vua của anh chị em.Và bây giờ, đây là vua mà anh chị em đã chọn và cầu xin. Này, CHÚA đã ban một vua cai trị anh chị em. Nếu anh chị em kính sợ CHÚA, phụng thờ Ngài, vâng giữ lời Ngài, không chống lại mạng lịnh Ngài, bấy giờ anh chị em và vua cai trị anh chị em mới thật sự đi theo CHÚA là Đức Chúa Trời của anh chị em. Còn nếu anh chị em không vâng giữ lời CHÚA, nhưng chống lại mạng lệnh CHÚA, Ngài sẽ chống lại anh chị em như Ngài đã chống lại tổ phụ của anh chị em trước kia.Vậy bây giờ, anh chị em hãy đứng yên nhìn xem việc lớn lao CHÚA sắp thực hiện trước mắt anh chị em. Hiện nay là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ cầu xin CHÚA ban mưa và sấm sét để anh chị em biết mình đã phạm tội nặng với CHÚA khi anh chị em cầu xin cho được một vua cai trị mình.” Khi ông Sa-mu-ên cầu xin CHÚA, CHÚA ban mưa và sấm sét ngay hôm ấy, khiến toàn dân kính sợ CHÚA và ông Sa-mu-ên vô cùng.Mọi người đều thưa với ông Sa-mu-ên: “Xin ông cầu nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của ông cho chúng tôi là tôi tớ ông khỏi phải chết, vì ngoài tất cả những tội lỗi chúng tôi hiện đang phạm, chúng tôi lại phạm thêm tội ác cầu xin cho được một vua.”Ông Sa-mu-ên đáp: “Anh chị em đừng sợ. Anh chị em có phạm mọi tội ác ấy, nhưng bây giờ đừng bỏ CHÚA, hãy hết lòng phụng sự CHÚA. Đừng bỏ CHÚA mà theo các thần tượng rỗng tuếch, không giúp ích gì, cũng không giải cứu được, vì chúng rỗng tuếch. CHÚA không bỏ dân Ngài đâu, vì danh cao trọng của Ngài, và vì CHÚA muốn cho anh chị em trở nên dân của Ngài. Phần tôi, tôi sẽ không ngừng cầu nguyện cho anh chị em để tôi khỏi phạm tội với CHÚA. Tôi sẽ tiếp tục chỉ dẫn anh chị em đường ngay lẽ phải. Phần anh chị em, anh chị em hãy kính sợ CHÚA, và hết lòng trung tín phụng sự Ngài. Anh chị em hãy nhớ lại những việc lớn lao Ngài làm cho anh chị em. Nhưng nếu anh chị em cứ tiếp tục phạm tội ác, chính anh chị em và vua của anh chị em sẽ bị diệt vong.”Nổi Dậy Chống Người Phi-li-tinÔng Sau-lơ được ba mươi tuổi13:1 Dịch theo LXX. Nt: không ghi rõ bao nhiêu tuổi khi lên ngôi vua, và cai trị dân Y-sơ-ra-ên được hai năm.Vua Sau-lơ chọn 3,000 quân trong dân Y-sơ-ra-ên. Hai ngàn quân ở với vua Sau-lơ tại Mích-ma và vùng đồi núi Bê-tên, còn 1,000 quân kia ở với Giô-na-than tại Ghi-bê-a, thuộc lãnh thổ của bộ tộc Bên-gia-min. Số dân còn lại vua cho ai nấy trở về lều mình.Giô-na-than giết quan tổng trấn Phi-li-tin đóng tại Ghê-ba.13:3 LXX, Tg: Ghi-bê-a Người Phi-li-tin nghe tin ấy. Vua Sau-lơ liền ra lệnh thổi tù và khắp xứ, kêu gọi: “Các người Hy-bá, hãy nghe đây!” Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe tin vua Sau-lơ giết tổng trấn13:4 Hoặc “đánh đồn.” Phi-li-tin và họ bị người Phi-li-tin căm thù, họ liền theo vua Sau-lơ và tập họp tại Ghinh-ganh.Người Phi-li-tin cũng tập trung lực lượng để đánh dân Y-sơ-ra-ên. Chúng có 3,00013:5 Dịch theo LXX, Syr; nt: ba mươi ngàn chiến xa gỗ, 6,000 kỵ binh, và bộ binh đông như cát biển. Chúng kéo lên đóng quân tại Mích-ma, phía đông Bết-a-ven. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy tình thế nguy kịch vì bị quân thù siết chặt, họ trốn trong hang động, bụi rậm, gành đá, mồ mả, và hầm hố. Một số người Hy-bá băng qua sông Giô-đanh, đến xứ Gát và Ga-la-át.Vua Sau-lơ Bị Khiển TráchTrong khi đó, vua Sau-lơ vẫn còn ở lại Ghinh-ganh, và mọi người theo vua đều run sợ. Vua Sau-lơ chờ đợi bảy ngày theo lời ông Sa-mu-ên dặn, nhưng ông vẫn chưa đến Ghinh-ganh. Binh sĩ khởi sự rã ngũ. Vua Sau-lơ truyền: “Hãy đem tế lễ toàn thiêu và tế lễ liên hoan đến cho ta.” Và vua dâng tế lễ toàn thiêu. Vua vừa dâng tế lễ toàn thiêu xong thì ông Sa-mu-ên đến nơi. Vua Sau-lơ ra đón tiếp ông.Ông Sa-mu-ên hỏi: “Vua làm gì vậy?” Vua Sau-lơ đáp: “Con thấy binh sĩ bỏ con đi tản mát, và ông cũng không đến theo như đã hẹn. Ngoài ra, quân Phi-li-tin đã tụ tập tại Mích-ma. Bấy giờ con nghĩ quân Phi-li-tin chắc sẽ kéo xuống Ghinh-ganh đánh chúng con mà chúng con chưa cầu xin ơn CHÚA, nên con buộc lòng phải dâng tế lễ toàn thiêu.”Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Vua cư xử thật dại dột vì vua không tuân giữ mạng lệnh mà CHÚA là Đức Chúa Trời vua đã truyền cho vua. Nếu vua vâng lời CHÚA, Ngài sẽ lập ngôi vua vững bền đời đời trên nước Y-sơ-ra-ên. Nhưng bây giờ, ngôi vua sẽ không bền. CHÚA đã tìm cho Ngài một người theo ý Ngài, và CHÚA sẽ lập người đó lên lãnh đạo dân Ngài, vì vua không tuân giữ mạng lệnh CHÚA.”Ông Sa-mu-ên đứng dậy, rời khỏi Ghinh-ganh, đi đường mình. Binh sĩ còn lại theo vua Sau-lơ đi từ Ghinh-ganh lên nhập với quân đội tại Ghi-bê-a, thuộc lãnh thổ Bên-gia-min.13:15 Dịch theo LXX; nt: ông Sa-mu-ên đi từ Ghinh-ganh lên Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-minBinh Sĩ Y-sơ-ra-ên Không Có Vũ KhíVua Sau-lơ kiểm quân số còn lại với mình: khoảng 600 người. Vua Sau-lơ với con trai là Giô-na-than, và đám quân còn lại đóng tại Ghê-ba13:16 Ghi-bê-a và Ghê-ba có thể là hai cách gọi cùng một địa phận thuộc xứ Bên-gia-min, trong khi quân Phi-li-tin đóng tại Mích-ma. Một đạo quân từ trại Phi-li-tin đi ra cướp phá, chia thành ba toán. Một toán đi về hướng Óp-ra, thuộc xứ Su-anh. Toán thứ nhì đi về hướng Bết-hô-rôn, và toán thứ ba đi về hướng biên giới, trên con đường nhìn xuống trũng Linh-cẩu, về phía sa mạc.Bấy giờ, trong cả xứ Y-sơ-ra-ên không tìm được một người thợ rèn, vì người Phi-li-tin tự bảo: “Phải cấm, không cho bọn Hy-bá rèn gươm hoặc giáo.” Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều phải xuống mướn người Phi-li-tin mài lưỡi cày, cuốc, rìu, hoặc lưỡi hái.13:20 Dịch theo LXX; nt: lưỡi càyTiền công mài lưỡi cày và lưỡi cuốc là hai phần ba sê-ken13:21 Khoảng 8g bạc,13:21 Nt: Khoảng 4g mài chĩa ba, rìu, và gậy thúc bò là một phần ba sê-ken bạc.13:21 Nt: không rõ nghĩaVì thế, trong ngày giao tranh, không một người lính nào của vua Sau-lơ hoặc Giô-na-than có được trong tay một cây gươm cây giáo gì cả. Chỉ vua Sau-lơ và con trai vua là Giô-na-than mới có.Một toán quân trong đồn Phi-li-tin kéo ra đèo Mích-ma.Giô-na-than Tấn Công Đồn Phi-li-tinMột hôm, Giô-na-than bảo thanh niên vác binh khí cho mình: “Nào, chúng ta hãy đi sang đồn người Phi-li-tin đóng đối diện bên kia.” Nhưng anh không nói cho cha mình biết.Bấy giờ vua Sau-lơ đang đóng quân dưới cây lựu ở Mi-gơ-rôn,14:2 Mi-gơ-rôn là địa danh, nhưng cũng có thể hiểu là: “cạnh sân đạp lúa.” vùng ngoại ô thành Ghi-bê-a; quân số của vua khoảng sáu trăm người. Thầy tế lễ đương thời mang ê-phót để cầu hỏi ý CHÚA là A-bi-gia, con trai A-hi-túp (A-hi-túp là anh của Y-ca-bốt), cháu của Phi-nê-a, chắt của Hê-li (Hê-li là thầy tế lễ của CHÚA tại Si-lô). Binh sĩ không ai biết Giô-na-than đã rời trại.Giô-na-than muốn đi sang đồn người Phi-li-tin nên phải vượt qua đèo giữa hai đỉnh đá, đỉnh này gọi là Bốt-sết,14:4 Nghĩa là: bóng láng, trơn tru đỉnh kia gọi là Sê-nê.14:4 Nghĩa là: gai gốcĐỉnh phía bắc đối diện với Mích-ma, còn đỉnh phía nam đối diện với Ghê-ba.Giô-na-than bảo thanh niên vác binh khí: “Nào, chúng ta hãy đi sang đồn bọn ngoại đạo14:6 Nt: bọn người không cắt bì kia kia. Biết đâu CHÚA sẽ giúp chúng ta, vì không có gì ngăn cản CHÚA cho chúng ta chiến thắng, dù quân số chúng ta nhiều hay ít.” Thanh niên vác binh khí đáp: “Xin ông cứ làm mọi điều ông muốn. Tôi một lòng theo ông.” Giô-na-than nói tiếp: “Vậy, ta sẽ đi đến với bọn người đó, cho họ thấy ta. Nếu chúng bảo ta: ‘Đứng lại, chờ ta đến chỗ chúng bay!’ Chúng ta sẽ đứng lại, không đi lên phía chúng nữa. Nhưng nếu chúng bảo: ‘Lên đây!’ thì ta sẽ tiến lên, vì đó là dấu hiệu CHÚA sẽ nộp chúng vào tay ta.”Vậy hai người tiến về phía đồn người Phi-li-tin, cho họ thấy mình. Người Phi-li-tin nói với nhau: “Kìa, bọn Hy-bá chui ra khỏi hang nơi chúng trú ẩn!” Quân lính trong đồn gọi với ra Giô-na-than và người vác binh khí: “Lên đây, ta cho chúng bay biết chuyện!” Giô-na-than nói với người vác binh khí: “Hãy bám sát theo ta, vì CHÚA đã nộp chúng vào tay dân Y-sơ-ra-ên.”Giô-na-than dùng cả tay và chân leo lên, người vác binh khí bám sát theo sau. Giô-na-than đánh quân Phi-li-tin ngã gục, người vác binh khí theo sau kết liễu đời chúng. Trong cuộc tấn công đầu tiên này, Giô-na-than và người vác binh khí giết được khoảng 20 người trên diện tích bằng chừng nửa luống cày của một sào đất.14:14 Nghĩa là khoảng 360m vuôngToàn quân trong trại cũng như ngoài đồng đều kinh hãi; quân trong đồn và ngay cả các toán quân cướp phá cũng kinh sợ. Đất rung chuyển khiến mọi người càng thêm sợ hãi.14:15 Nt: “nó trở thành sự sợ hãi của Đức Chúa Trời” nghĩa là sự sợ hãi rất lớnNgười Phi-li-tin Thua TrậnLính canh của vua Sau-lơ tại Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min nhìn thấy đám đông chạy hỗn loạn. Vua Sau-lơ bảo quân lính: “Hãy điểm quân, xem ai rời khỏi đây.” Họ điểm quân và thấy thiếu Giô-na-than và người vác binh khí của anh.Vua Sau-lơ bảo thầy tế lễ A-hi-gia: “Xin ông mang Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lại đây.” Lúc bấy giờ Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời ở giữa dân Y-sơ-ra-ên.14:18 LXX: “Xin ông mang ê-phót lại đây” lúc bấy giờ thầy tế lễ A-hi-gia mang ê-phót trước mặt dân Y-sơ-ra-ênTrong khi vua Sau-lơ còn đang nói với thầy tế lễ, trại quân Phi-li-tin mỗi lúc càng thêm ồn ào náo loạn. Vua Sau-lơ bảo thầy tế lễ: “Xin ông rút tay lại.”14:19 Nghĩa là: “Sự kiện rõ ràng quá rồi, chúng ta khỏi phải cầu hỏi ý CHÚA nữa”; xem Xuất 28:15-30Vua Sau-lơ tập họp toàn quân xông vào trận mạc. Kìa, người Phi-li-tin trở gươm chém giết lẫn nhau, quan cảnh vô cùng hỗn loạn. Những người Hy-bá trước kia theo phía Phi-li-tin nay cũng theo vua Sau-lơ và Giô-na-than. Tất cả những người Y-sơ-ra-ên đang ẩn núp trong vùng đồi núi Ép-ra-im, nghe tin người Phi-li-tin thua chạy cũng đuổi sát theo chúng trong cuộc chiến. Vậy, CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ngày hôm ấy.Binh Sĩ Y-sơ-ra-ên Giải Cứu Giô-na-thanChiến tranh lan rộng vượt khỏi thành Bết A-ven. Nhưng hôm ấy, binh sĩ Y-sơ-ra-ên mệt lả người vì vua Sau-lơ buộc họ giữ lời thề: “Người nào ăn chút gì trước khi chiều tối, trước khi ta trả thù xong quân thù của ta, đáng bị rủa sả!” Vì thế, toàn quân không ai dám nếm một chút gì.Mọi người đến một cánh rừng, có mật ong ngay trên mặt đất. Họ vào trong rừng, thấy mật ong chảy, nhưng không ai dám lấy tay chấm đưa vào miệng, vì sợ lời thề. Nhưng Giô-na-than không có nghe cha mình buộc binh sĩ giữ lời thề. Anh giơ cây gậy cầm trong tay ra, nhúng đầu gậy vào tàng ong, lấy tay chấm cho vào miệng. Tức thì mắt anh sáng lên. Một người trong đám binh sĩ liền nói: “Cha anh buộc các binh sĩ giữ lời thề: ‘Người nào ăn chút gì ngày hôm nay đáng bị rủa sả!’ Vì thế các binh sĩ đều kiệt sức.”Giô-na-than đáp: “Cha tôi đã gây rắc rối cho đất nước. Anh em xem mắt tôi sáng bừng lên chỉ vì tôi nếm chút mật ong này. Giả sử hôm nay các binh sĩ được tự do ăn chiến lợi phẩm họ thu được khi đánh thắng quân thù, thì quân Phi-li-tin chắc sẽ thất trận nặng nề hơn biết bao!”Ngày hôm ấy, các binh sĩ đánh bại người Phi-li-tin từ thành Mích-ma chạy dài đến thành A-gia-lôn thì họ đuối sức. Các binh sĩ xông vào lấy chiến lợi phẩm, bắt chiên dê, bò và bò con, giết ngay trên đất, rồi ăn thịt hãy còn máu. Có người báo cáo với vua Sau-lơ: “Các binh sĩ phạm tội với CHÚA, họ ăn thịt hãy còn máu.” Vua quát lên: “Các người đã bội ước! Hãy lăn ngay một hòn đá to lại đây cho ta.” Vua Sau-lơ ra lệnh tiếp: “Hãy rải người ra đi bảo các binh sĩ ai nấy phải đem bò, chiên, dê của mình lại đây, làm thịt tại đây, rồi ăn. Các ngươi không được ăn thịt hãy còn máu mà phạm tội với CHÚA.” Đêm ấy, các binh sĩ ai nấy đều đem bò mình đến và làm thịt tại đó. Thế là vua Sau-lơ dựng bàn thờ để thờ CHÚA; đây là lần đầu tiên vua dựng bàn thờ để thờ CHÚA.Sau đó, vua Sau-lơ đề nghị: “Ta hãy đuổi theo quân Phi-li-tin đêm nay, cướp phá chúng đến khi trời hừng sáng, và đừng để cho tên nào sống sót.” Quân sĩ đáp: “Vua thấy điều gì phải, xin vua cứ làm.” Nhưng thầy tế lễ góp ý: “Chúng ta nên cầu hỏi ý Đức Chúa Trời trước đã.” Vua Sau-lơ cầu hỏi Đức Chúa Trời: “Con có nên đuổi theo quân Phi-li-tin không? Ngài có nộp chúng vào tay dân Y-sơ-ra-ên không?” Nhưng Đức Chúa Trời không đáp lời ngày hôm ấy. Vua Sau-lơ ra lệnh: “Các vị chỉ huy quân đội, hãy đến đây tìm xem ai đã phạm tội gì ngày hôm nay. Xin CHÚA Hằng Sống chứng cho ta, ta hứa rằng kẻ nào phạm tội chắc chắn phải chết, dù cho kẻ ấy là Giô-na-than, con ta.” Toàn quân, không ai đáp lời vua. Vua ra lệnh cho toàn quân Y-sơ-ra-ên: “Các người đứng một bên, còn ta và Giô-na-than, con ta, đứng bên kia.” Các binh sĩ đáp: “Xin vua làm điều gì đẹp ý vua.”Vua Sau-lơ cầu nguyện: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sao Ngài không đáp lời tôi tớ CHÚA ngày hôm nay? Lạy CHÚA, xin đáp lời con qua các viên đá thánh. Nếu đây là lỗi của con, hoặc của Giô-na-than, con trai con, xin Ngài cho U-rim; còn nếu đây là lỗi của các binh sĩ Y-sơ-ra-ên, xin Ngài cho Thu-mim.”14:41 Dịch theo các cổ bản; nt: tối nghĩa: Vua Sau-lơ thưa với CHÚA: “Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài ban điều trọn vẹn.” Giô-na-than và vua Sau-lơ bị trúng thăm, còn binh sĩ thoát khỏi. Vua Sau-lơ truyền: “Hãy rút thăm giữa ta và Giô-na-than, con ta.” Giô-na-than bị trúng thăm. Vua Sau-lơ bảo Giô-na-than: “Hãy cho cha biết con đã làm gì.” Giô-na-than thưa: “Thú thật với cha, con có nếm một chút mật ong bằng đầu cây gậy con cầm trong tay. Con sẵn sàng chịu chết.” Vua Sau-lơ thề: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt cha thế này hoặc nặng hơn nữa, nếu con không bị xử tử, Giô-na-than!” Nhưng binh sĩ thưa với vua Sau-lơ: “Lẽ nào ông Giô-na-than phải chết khi chính ông đã mang lại chiến thắng vẻ vang này cho dân Y-sơ-ra-ên? Không thể được! Xin CHÚA Hằng Sống chứng cho chúng tôi, chúng tôi sẽ không để một sợi tóc nào trên đầu ông rơi xuống đất, vì ông làm được việc ngày hôm nay là nhờ có Đức Chúa Trời giúp đỡ ông.”Thế là binh sĩ cứu Giô-na-than thoát khỏi án tử hình. Vua Sau-lơ ngưng, không đuổi theo quân Phi-li-tin nữa, và chúng rút về xứ mình.Vua Sau-lơ Chiến Thắng Quân ThùSau khi lên ngôi cai trị dân Y-sơ-ra-ên, vua Sau-lơ giao chiến với mọi kẻ thù tứ phía: quân Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, các vua Xô-ba, và quân Phi-li-tin. Vua đánh trận nào vua cũng thắng.14:47 Dịch theo LXX; nt: cũng làm điều ácVua chiến đấu anh dũng, dẹp tan quân A-ma-léc, và giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay quân cướp phá.Gia Đình Vua Sau-lơVua Sau-lơ có ba con trai: Giô-na-than, Gi-sê-vi, Manh-ki-sua và hai con gái, cô lớn là Mê-ráp, và cô nhỏ là Mi-canh. Vợ vua Sau-lơ là A-hi-nô-am, con gái ông A-hi-mát. Tổng tư lệnh quân đội là Áp-ne, con trai ông Nê-rơ; ông này là chú vua Sau-lơ. Ông Kích, cha vua Sau-lơ, và ông Nê-rơ, cha ông Áp-ne, đều là con ông A-bi-ên. Suốt triều vua Sau-lơ, vua giao tranh kịch liệt với quân Phi-li-tin. Vì thế, khi thấy ai hùng dũng can trường, vua Sau-lơ liền thu nạp vào quân đội của vua.Giao Chiến Với Quân A-ma-lécÔng Sa-mu-ên nói với vua Sau-lơ: “Tôi chính là người CHÚA sai đi xức dầu cho vua cai trị dân Ngài, tức là dân Y-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ, xin vua nghe lời CHÚA phán.” CHÚA Toàn Năng phán như vầy: “Ta nhớ lại cách dân A-ma-léc đối xử với dân Y-sơ-ra-ên, thể nào chúng đã chận đường dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai-cập. Vậy bây giờ, con hãy đi đánh dân A-ma-léc, hủy diệt hết mọi người, mọi vật thuộc về chúng, đừng thương tiếc. Con phải giết cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, con nít còn bú, bò chiên, lạc đà, lừa.”Vua Sau-lơ triệu tập đạo quân tại Tê-la-im và điểm binh: có 200,000 bộ binh và 10,000 người Giu-đa. Vua Sau-lơ kéo quân đến thành của dân A-ma-léc và mai phục trong lòng sông cạn khô. Vua Sau-lơ cũng sai người báo với dân Kê-nít: “Anh chị em hãy đi, hãy tránh xa dân A-ma-léc, để khỏi bị hủy diệt chung với bọn chúng, vì anh chị em đối xử tử tế với toàn dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai-cập.” Vậy, dân Kê-nít tách ra khỏi dân A-ma-léc.Vua Sau-lơ đánh bại quân A-ma-léc từ Ha-vi-la đến Su-rơ, phía đông Ai-cập. Vua Sau-lơ bắt sống A-ga, vua dân A-ma-léc, nhưng dùng gươm diệt sạch toàn dân. Vua Sau-lơ và binh sĩ tha chết cho A-ga; họ cũng tiếc và không chịu hủy diệt những con thú tốt nhất trong bầy chiên dê và bò, những con thú được nuôi cho mập,15:9 Nt: những con thú thuộc lứa đẻ thứ nhì những chiên con, và tất cả những con gì tốt; nhưng họ diệt hết tất cả những con thú vô dụng và không có giá trị.CHÚA Từ Bỏ Vua Sau-lơCHÚA phán với ông Sa-mu-ên: “Ta hối tiếc đã lập Sau-lơ làm vua, vì người đã bỏ, không theo Ta, và không thi hành mạng lệnh Ta.” Ông Sa-mu-ên giận lắm, ông kêu cầu CHÚA suốt đêm.Sáng hôm sau, ông Sa-mu-ên thức dậy sớm đi gặp vua Sau-lơ. Có người báo tin cho ông Sa-mu-ên: “Vua Sau-lơ đã lên núi Cạt-mên, dựng đài kỷ niệm cho mình, rồi quay về, đi xuống Ghinh-ganh.”Khi ông Sa-mu-ên đến gặp vua Sau-lơ, vua chào ông: “Xin CHÚA ban phước cho ông. Con đã thi hành xong mạng lệnh của CHÚA.” Ông Sa-mu-ên hỏi: “Thế thì tiếng chiên dê be be kia bên tai tôi, và tiếng bò rống tôi nghe là gì vậy?” Vua Sau-lơ đáp: “Các binh sĩ tiếc những con thú tốt nhất trong bầy chiên, dê, và bò của dân A-ma-léc nên mang về để dâng tế lễ cho CHÚA là Đức Chúa Trời của ông. Chúng con hủy diệt tất cả những gì còn lại.” Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Đủ rồi! Để tôi thuật lại cho vua nghe điều gì CHÚA phán với tôi đêm qua.” Vua Sau-lơ thưa: “Xin ông dạy bảo.”Ông Sa-mu-ên nói: “Trong khi vua tự thấy mình thấp hèn, CHÚA lập vua đứng dầu các bộ tộc trong Y-sơ-ra-ên, Ngài xức dầu cho vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA sai vua lên đường và truyền dặn: ‘Con hãy đi hủy diệt bọn người tội ác kia là dân A-ma-léc. Con hãy giao chiến với chúng cho đến khi chúng bị tận diệt.’ Vậy, tại sao vua không vâng lời CHÚA mà lại cướp lấy chiến lợi phẩm, làm buồn lòng CHÚA?”15:19 Nt: Điều ác trước mặt CHÚA?Vua Sau-lơ thưa với ông Sa-mu-ên: “Nhưng con có vâng lời CHÚA, lên đường làm tròn sứ mạng CHÚA giao. Con đem A-ga, vua dân A-ma-léc, về đây, còn dân A-ma-léc, con đã diệt hết rồi. Còn về chiến lợi phẩm phải bị tận diệt, các binh sĩ đã chọn những con chiên, dê, và bò tốt nhất mang về để dâng tế lễ cho CHÚA là Đức Chúa Trời của ông tại Ginh-ganh.”Ông Sa-mu-ên nói:“Dâng tế lễ toàn thiêu và sinh tếCó làm CHÚA vui lòng bằng sự vâng lời CHÚA không?Vâng lời chắc chắn tốt hơn dâng sinh tế,Chú tâm nghe theo tốt hơn dâng mỡ chiên đực.Vì phản nghịch khác nào tội bói toán,Kiêu ngạo khác nào tội thờ hình tượng.Vì vua đã gạt bỏ lời CHÚA,Nên Ngài cũng gạt bỏ vua, không cho vua cai trị nữa.”Vua Sau-lơ thú nhận với ông Sa-mu-ên: “Con có tội. Con đã vi phạm mạng lệnh CHÚA và lời ông dạy, vì con sợ các binh sĩ nên nghe theo lời họ. Bây giờ xin ông tha tội cho con và trở về với con, để con sấp mình xuống thờ phượng CHÚA.” Ông Sa-mu-ên đáp lời vua Sau-lơ: “Tôi không thể trở về với vua vì vua đã gạt bỏ lời CHÚA, và CHÚA cũng gạt bỏ vua, không cho vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên nữa.”Ông Sa-mu-ên quay lưng đi, nhưng vua Sau-lơ níu chặt chéo áo khoác của ông, khiến áo bị xé rách. Ông Sa-mu-ên bảo vua Sau-lơ: “Hôm nay CHÚA cũng xé vương quốc Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay vua như vậy và ban nó cho một người khác xứng đáng hơn vua. Hơn nữa, CHÚA là vinh quang của Y-sơ-ra-ên, Ngài không hề nói dối, cũng chẳng đổi ý, vì Ngài không phải là người phàm để mà đổi ý.” Vua Sau-lơ van nài: “Con có tội. Nhưng bây giờ xin ông tôn trọng con trước mặt các trưởng lão và toàn dân Y-sơ-ra-ên. Xin ông trở về với con để con sấp mình xuống thờ phượng CHÚA là Đức Chúa Trời của ông.” Ông Sa-mu-ên quay trở về với vua Sau-lơ, và vua sấp mình xuống thờ phượng CHÚA.Ông Sa-mu-ên bảo: “Hãy đem A-ga, vua dân A-ma-léc, lại đây cho tôi.” Vua A-ga nhẹ nhàng bước tới, lòng thầm nghĩ: “Sự chết cay đắng đã qua rồi!”15:32 Nt: khó hiểu; ctd: Vua A-ga loạng choạng bước tới, lòng thầm nghĩ: “Sự chết cay đắng sắp đến rồi!”Ông Sa-mu-ên bảo: “Lưỡi gươm của ngươi đã làm cho các bà mẹ mất con thế nào thì chính mẹ ngươi cũng sẽ mất con thể ấy.” Nói xong, ông Sa-mu-ên chém A-ga gục xuống15:33 Dịch theo các bản cổ; nt: không rõ nghĩa trước đền thờ CHÚA tại Ghinh-ganh.Sau đó, ông Sa-mu-ên trở về Ra-ma, trong khi vua Sau-lơ về nhà mình tại Ghi-bê-a. Ông Sa-mu-ên không hề gặp vua Sau-lơ nữa cho đến ngày ông qua đời. Ông đau buồn nhiều về vua Sau-lơ. CHÚA hối tiếc đã lập Sau-lơ làm vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên.CHÚA Chọn Đa-vítCHÚA bảo ông Sa-mu-ên: “Con tiếp tục đau buồn về Sau-lơ cho đến chừng nào? Ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua Y-sơ-ra-ên nữa. Con đổ đầy dầu một sừng rồi đi. Ta sai con đến gặp Y-sai ở Bết-lê-hem vì Ta đã chọn cho Ta một trong những con trai của người để làm vua.” Ông Sa-mu-ên thưa: “Con đi sao được? Nếu vua Sau-lơ nghe tin, chắc sẽ giết con.” CHÚA đáp: “Con dẫn theo một bò tơ và nói: ‘Tôi đến dâng sinh tế lên CHÚA.’ Rồi con mời Y-sai đến dự lễ. Ta sẽ dạy con điều phải làm, Ta sẽ chỉ cho con biết người con sẽ xức dầu làm vua để phục vụ Ta.”Ông Sa-mu-ên làm theo điều CHÚA truyền, đi đến Bết-lê-hem. Các trưởng lão trong thành ra đón ông. Họ run sợ hỏi: “Thưa ông đến đây với mục đích bình an?” Ông đáp: “Bình an. Tôi đến dâng sinh tế lên CHÚA. Anh em dọn mình thánh sạch rồi đến dự lễ với tôi.” Ông cũng mời ông Y-sai và các con trai ông dọn mình thánh sạch đến dự lễ nữa.Khi ông Y-sai và các con trai ông đến, ông Sa-mu-ên nhìn thấy Ê-li-áp, tự nghĩ: “Chắc đây là người CHÚA chọn.” Nhưng CHÚA bảo ông: “Con đừng chú ý diện mạo và dáng vóc cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Ta không xét đoán như loài người xét đoán, vì loài người chỉ nhìn thấy bề ngoài, nhưng CHÚA nhìn thấy tấm lòng bên trong.” Ông Y-sai gọi A-bi-na-đáp, bảo người đến trình diện ông Sa-mu-ên, nhưng ông nói: “CHÚA cũng không chọn người này.” Ông Y-sai bảo Sam-ma đến trình diện ông Sa-mu-ên, nhưng ông lặp lại: “CHÚA cũng không chọn người này.” Ông Y-sai cho bảy người con mình đến trình diện ông Sa-mu-ên như vậy, nhưng ông bảo: “CHÚA không chọn ai trong những người này.” Sau đó, ông Sa-mu-ên hỏi ông Y-sai: “Ông còn người con nào nữa không?” Ông đáp: “Còn đứa út đang chăn chiên.” Ông Sa-mu-ên bảo: “Ông cho người gọi cậu ấy về, vì chúng ta sẽ không bắt đầu buổi lễ cho đến khi cậu ấy về.” Ông Y-sai cho người gọi cậu út về. Cậu này trông khỏe mạnh hồng hào, đôi mắt sáng ngời, diện mạo khôi ngô. CHÚA bảo ông Sa-mu-ên: “Đây đúng là người Ta chọn. Con đứng lên xức dầu cho nó làm vua!”Ông Sa-mu-ên cầm sừng dầu, đổ lên đầu Đa-vít trước mặt các anh người. Ngay lúc đó, thần linh của CHÚA chiếm ngự Đa-vít, và ở với chàng luôn kể từ ngày hôm ấy.Sau đó, ông Sa-mu-ên trở về Ra-ma.Đa-vít Vào Triều Phục Vụ Sau-lơNhưng Thần Linh của CHÚA rời khỏi vua Sau-lơ, và một ác thần từ CHÚA đến quấy nhiễu vua. Triều thần đề nghị: “Có một ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy nhiễu bệ hạ. Xin bệ hạ truyền cho bề tôi đang đứng trước mặt bệ hạ đây tìm một người chơi đàn hạc giỏi. Khi nào ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy rầy bệ hạ, người ấy sẽ gảy đàn cho bệ hạ cảm thấy dễ chịu.”Vua Sau-lơ bảo triều thần: “Các ngươi hãy đi tìm một người chơi đàn giỏi, đem về đây cho ta.” Một quan triều thần tâu: “Tôi biết ông Y-sai ở Bết-lê-hem có một người con trai, Anh này chơi đàn giỏi, là một dũng sĩ chiến đấu can trường, nói năng lưu loát, lại đẹp trai, và có CHÚA ở cùng anh.”Vua Sau-lơ sai sứ giả đến nói với ông Y-sai: “Ngươi hãy gởi cho ta con ngươi là Đa-vít, đứa chăn chiên.” Ông Y-sai bắt một con lừa, chất bánh, một bầu rượu, và một con dê con lên lưng lừa, rồi sai Đa-vít con mình đem biếu vua Sau-lơ. Đa-vít vào yết kiến vua Sau-lơ và khởi sự phục vụ vua ngay. Vua thương chàng nhiều đến nỗi vua giao cho chàng mang binh khí của vua. Chẳng bao lâu sau đó, vua Sau-lơ sai người nói với ông Y-sai: “Ngươi hãy để Đa-vít ở lại đây phục vụ ta, vì cậu ấy rất vừa lòng ta.”Khi nào ác thần từ Đức Chúa Trời đến quấy nhiễu vua Sau-lơ, Đa-vít mang đàn hạc ra gảy. Vua được giải khuây, cảm thấy dễ chịu, và ác thần bỏ đi.Gô-li-át Thách Thức Dân Y-sơ-ra-ênNgười Phi-li-tin tập trung quân đội để giao chiến. Họ tập họp tại Sô-cô, một thành của xứ Giu-đa, và đóng quân ở Ê-phét Đam-mim, giữa Sô-cô và A-xê-ka. Vua Sau-lơ và đạo quân Y-sơ-ra-ên cũng tập họp lại và đóng trại tại thung lũng Ê-la.17:2 Ctd: thung lũng cây dẻ Họ dàn quân sẵn sàng để nghênh chiến quân Phi-li-tin. Quân Phi-li-tin trải lực lượng ra17:3 Nt: đứng trên đồi bên này trũng, và quân Y-sơ-ra-ên trên đồi bên kia trũng.Một đấu thủ từ hàng ngũ quân Phi-li-tin bước ra để thách thức quân Y-sơ-ra-ên vào trận đấu tay đôi. Đấu thủ này tên là Gô-li-át, người thành Gát, cao khoảng ba thước,17:4 LXX: khoảng hai thướcđầu đội mũ chiến bằng đồng, mặc áo giáp vảy cá bằng đồng, nặng khoảng năm ngàn sê-ken,17:5 Khoảng 60kgchân quấn xà cạp bằng đồng, vai đeo một cây dao đồng. Gô-li-át cũng có một cây giáo, cán giáo to như trục khung cửi thợ dệt, mũi giáo bằng sắt nặng trên sáu trăm sê-ken.17:7 Khoảng 7kg Một chiến sĩ mang thuẫn đi trước đỡ cho Gô-li-át.Gô-li-át dừng lại, gọi với vào hàng ngũ Y-sơ-ra-ên: “Tại sao các ngươi lại ra đây dàn trận? Ta là chiến sĩ oai hùng nhất trong quân đội Phi-li-tin. Còn các ngươi là tôi mọi của Sau-lơ. Hãy chọn một người xuống đây đấu với ta! Nếu người đó thắng được ta và giết ta, chúng ta sẽ làm tôi mọi các ngươi. Còn nếu ta thắng và giết được người đó, các ngươi sẽ làm tôi mọi chúng ta và phục dịch chúng ta.” Tên Phi-li-tin nói tiếp: “Chính ngày nay ta thách đạo quân Y-sơ-ra-ên. Các ngươi hãy chọn một người ra đấu với ta!”Khi vua Sau-lơ và toàn quân Y-sơ-ra-ên nghe tên Phi-li-tin nói những lời đó, họ khiếp vía kinh hồn.Đa-vít Vào Trại Quân Thăm Các Anh MìnhĐa-vít là con ông Y-sai, người Ép-ra-ta, ở thành Bết-lê-hem, thuộc xứ Giu-đa. Y-sai có tám con trai. Dưới triều vua Sau-lơ, ông là một trưởng lão có tiếng tăm.17:12 Dịch theo lời giải thích trong HOTTP; LXX, Syr: người cao tuổiBa người con lớn của ông Y-sai đều theo vua Sau-lơ ra trận. Ba người con của ông ngoài trận địa tên là: Ê-li-áp, con trưởng, A-bi-na-đáp, con thứ hai, và Sam-ma, con thứ ba. Đa-vít là con út. Trong khi ba anh lớn đi theo vua Sau-lơ, Đa-vít cũng hầu vua, nhưng chàng đi đi về về để chăn chiên cho cha mình ở Bết-lê-hem.Sáng và chiều, trong bốn mươi ngày liên tiếp, Gô-li-át người Phi-li-tin cứ tiến ra thách thức đội quân Y-sơ-ra-ên.17:16 Nt: tiến ra đứng tại vị trí của mìnhMột ngày kia, ông Y-sai bảo Đa-vít, con mình: “Con mang cho các anh con bao17:17 Nt: “một ê-pha” tương đương với hai mươi hai lít hột rang này, và mười ổ bánh này. Con chạy mau mang đến trại cho các anh con. Con cũng mang theo mười miếng phó mát này cho viên chỉ huy ngàn quân. Con hỏi thăm sức khỏe các anh con và đem về cho cha một vật gì chứng tỏ các anh con bình an. Vua Sau-lơ và các anh con, cùng toàn quân Y-sơ-ra-ên đang tranh chiến với quân Phi-li-tin tại thung lũng Ê-la.”Sáng hôm sau, Đa-vít dậy sớm, giao bầy chiên lại cho một người chăn khác trông nom, mang theo thức ăn và ra đi như ông Y-sai căn dặn. Chàng đến hàng rào phòng thủ17:20 Nt: không rõ nghĩa vừa lúc đạo quân kéo ra dàn binh với tiếng reo hò thúc trận. Quân Y-sơ-ra-ên và quân Phi-li-tin dàn trận đối nhau. Đa-vít giao thức ăn lại cho người giữ kho, rồi chạy ra trận tuyến hỏi thăm sức khỏe các anh mình. Chàng đang nói chuyện với các anh thì thấy tên đấu thủ Gô-li-át, người Phi-li-tin từ thành Gát, tiến ra khỏi hàng ngũ17:23 Nt: hang động quân Phi-li-tin, và lên giọng thách thức như những lần trước. Đa-vít nghe hết. Toàn quân Y-sơ-ra-ên thấy Gô-li-át đều khiếp đảm bỏ chạy.Họ bảo nhau: “Các anh có thấy tên vừa tiến ra đó không? Tên đó tiến ra để sỉ nhục17:25 Ctd: thách thức quân Y-sơ-ra-ên ta. Người nào giết được nó, vua sẽ ban thưởng nhiều của cải, gả công chúa cho người đó, và nhà cha người được tự do, khỏi phải làm sưu, nộp thuế.”Đa-vít hỏi mấy binh sĩ đứng cạnh bên: “Vua sẽ thưởng gì cho người nào giết được tên Phi-li-tin này và rửa nhục cho dân Y-sơ-ra-ên? Còn tên Phi-li-tin không cắt bì kia là ai mà dám sỉ nhục đạo quân của Đức Chúa Trời Hằng Sống?” Binh sĩ thuật lại cho Đa-vít biết phần thưởng dành cho người nào giết được tên đó. Ê-li-áp, anh cả của Đa-vít, nghe em hỏi chuyện các binh sĩ, nổi giận, quát: “Mày xuống đây làm gì? Mày bỏ mấy con chiên kia trong sa mạc cho ai chăn? Tao biết mày xấc láo, ương ngạnh17:28 Nt: lòng dạ mày độc ác mày xuống đây chỉ để xem đánh nhau!” Đa-vít đáp: “Em có làm gì đâu? Em chỉ hỏi chuyện thôi.” Chàng quay lưng đi khỏi anh mình, lặp lại câu hỏi với một người lính khác. Mỗi lần Đa-vít hỏi, các binh sĩ cứ đáp y như lần đầu. Có người nghe những lời Đa-vít nói, về trình lên vua Sau-lơ. Vua cho đòi chàng đến.Đa-vít thưa với vua Sau-lơ: “Tâu bệ hạ, xin đừng ai ngã lòng17:32 LXX: xin bệ hạ đừng vì tên Phi-li-tin đó. Tôi tớ của bệ hạ sẽ đi ra chiến đấu với nó.” Vua Sau-lơ can: “Không được, con không thể nào đi ra chiến đấu với tên Phi-li-tin đó, vì con chỉ là một đứa trẻ trong khi nó đã từng là chiến binh từ khi còn trẻ.” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, tôi tớ ngài chăn chiên cho cha. Khi có sư tử hoặc gấu đến tha đi một chiên con trong bầy, con rượt theo, quật nó ngã xuống, và giật chiên ra khỏi mõm nó. Nếu nó chồm lên đánh con, con nắm râu nó,17:35 LXX: cổ họng nó và đập nó chết. Tôi tớ vua đã đánh chết cả sư tử lẫn gấu. Tên Phi-li-tin không cắt bì này cũng sẽ bị đánh chết như một trong các con thú đó, vì nó dám sỉ nhục đạo quân của Đức Chúa Trời Hằng Sống.” Đa-vít thưa tiếp: “CHÚA đã cứu con thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, chính Ngài cũng sẽ cứu con thoát khỏi tên Phi-li-tin này.” Vua Sau-lơ bằng lòng: “Được rồi, con cứ ra chiến đấu với nó.17:37 Nt: con cứ đi Cầu xin CHÚA ở với con.”Vua Sau-lơ lấy binh phục của mình mặc cho Đa-vít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu, và mặc áo giáp cho chàng. Đa-vít đeo thanh gươm của vua vào hông, bên ngoài áo giáp, rồi tập đi thử vì chưa quen. Đa-vít tâu với vua Sau-lơ: “Con không thể bước đi với những thứ này, vì con không quen.” Rồi chàng cởi bộ binh phục ra. Đa-vít cầm gậy, đi xuống bờ khe chọn năm hòn đá cuội bỏ vào bị chăn chiên của mình, rồi cầm ná trong tay, tiến về phía tên Phi-li-tin.Đa-vít Đánh Bại Gô-li-átTên Phi-li-tin cũng tiến về phía Đa-vít, mỗi lúc càng gần thêm. Người mang thuẫn đi trước nó. Tên Phi-li-tin nhìn thấy Đa-vít, liền khinh dể chàng, vì Đa-vít chỉ là một thiếu niên đẹp trai, da dẻ hồng hào. Tên Phi-li-tin quát tháo: “Ta có phải là chó đâu mà ngươi cầm gậy đến với ta?” Rồi tên Phi-li-tin đem tên các thần mình ra nguyền rủa Đa-vít. Tên Phi-li-tin thách thức Đa-vít: “Đến đây với ta, ta sẽ cho chim trời và thú rừng ăn thịt ngươi.”Đa-vít đáp: “Người cầm gươm, giáo, và lao đến với ta. Nhưng ta đến với ngươi trong danh CHÚA Toàn Năng, là Đức Chúa Trời của đạo quân Y-sơ-ra-ên mà ngươi sỉ nhục. Chính ngày nay CHÚA sẽ nộp ngươi vào tay ta, ta sẽ đánh hạ ngươi và chặt đầu ngươi. Chính ngày nay ta sẽ cho chim trời và thú rừng ăn thây của đạo quân Phi-li-tin. Bấy giờ cả thế giới sẽ biết rằng Y-sơ-ra-ên có Đức Chúa Trời, và toàn thể hội chúng này sẽ biết rằng CHÚA giải cứu dân Ngài, mà không cần gươm hoặc giáo, vì CHÚA có toàn quyền trên chiến trận, và Ngài sẽ nộp các ngươi vào tay chúng ta.”Khi tên Phi-li-tin tiếp tục tiến đến gần Đa-vít, chàng vội vàng chạy ra trận tuyến để đương đầu với tên Phi-li-tin. Đa-vít thọc tay vào bị, rút ra một hòn đá, cho vào ná, bắn trúng ngay trán tên Phi-li-tin. Hòn đá lọt sâu vào trong trán khiến tên Phi-li-tin ngã sấp mặt xuống đất.Thế là Đa-vít thắng tên Phi-li-tin với cái ná và hòn đá. Chàng hạ tên Phi-li-tin và giết nó chết mà không có gươm trong tay. Đa-vít chạy lại đứng trên xác tên Phi-li-tin. Chàng rút gươm nó ra khỏi bao, đâm nó chết, rồi chặt đầu nó.Quân Phi-li-tin thấy vị anh hùng của mình chết rồi, liền bỏ chạy. Quân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa reo hò xung trận và đuổi theo quân Phi-li-tin cho đến lối vào thành Gát17:52 Dịch theo LXX; nt: lối vào thung lũng và cổng thành Éc-rôn. Quân Phi-li-tin bị thương ngã chết dọc theo đường Sa-ra-gim cho đến thành Gát và Éc-rôn.Quân Y-sơ-ra-ên đuổi theo quân Phi-li-tin xong, quay về cướp phá trại chúng. Đa-vít lấy đầu tên Phi-li-tin đem về thành Giê-ru-sa-lem, nhưng giữ khí giới của nó trong lều mình.Đa-vít Được Vào Trình Diện Vua Sau-lơKhi vua Sau-lơ thấy Đa-vít ra chiến đấu với tên Phi-li-tin, vua hỏi tướng Áp-ne, tổng tư lệnh quân đội: “Áp-ne, thiếu niên đó là con nhà ai?” Tướng Áp-ne đáp: “Tâu bệ hạ, thật như bệ hạ còn sống, tôi không biết chi cả.” Vua truyền: “Nhà ngươi hãy hỏi thăm xem đứa trẻ đó là con nhà ai.” Vậy khi Đa-vít hạ xong tên Phi-li-tin, xách cái đầu của nó trong tay, trở về, tướng Áp-ne dẫn chàng vào trình diện vua Sau-lơ. Vua Sau-lơ hỏi: “Thiến niên kia, con là con nhà ai?” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, con đây là con của ông Y-sai, tôi tớ vua ở Bết-lê-hem.”Giô-na-than Kết Bạn Với Đa-vítĐa-vít vừa tâu xong với vua Sau-lơ, tâm hồn Giô-na-than liền gắn bó với tâm hồn Đa-vít, và Giô-na-than yêu mến Đa-vít như chính mình. Hôm ấy, vua Sau-lơ giữ Đa-vít lại, không cho chàng trở về nhà cha mình nữa. Giô-na-than và Đa-vít lập giao ước kết bạn với nhau vì Giô-na-than yêu mến Đa-vít như chính mình. Giô-na-than cởi áo khoác đang mặc cho Đa-vít, cũng cho luôn binh phục, gươm, cung và đai thắt lưng của mình nữa.Hễ khi nào vua Sau-lơ sai Đa-vít ra trận, Đa-vít đều thắng trận, cho nên vua Sau-lơ đặt chàng chỉ huy quân đội chinh chiến. Điều này vừa lòng toàn quân và cũng vừa lòng các triều thần của vua nữa.Vua Sau-lơ Bắt Đầu Ganh Ghét Đa-vítSau khi Đa-vít hạ được tên Phi-li-tin, đoàn quân chiến thắng trở về. Phụ nữ từ khắp các thành trong Y-sơ-ra-ên kéo ra đón mừng vua Sau-lơ. Họ hát mừng, nhảy múa theo tiếng trống con và tiếng đàn tam.18:6 Một loại đàn có ba dâyPhụ nữ vui đùa ca hát đối đáp:“Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn!”Lời hát này không vừa ý vua Sau-lơ, vua giận lắm, nhủ thầm: “Họ khen Đa-vít giết được hàng vạn, con ta chỉ có hàng ngàn thôi! Nó chỉ còn thiếu ngôi vua mà thôi!” Từ ngày ấy trở đi, vua Sau-lơ nhìn Đa-vít với con mắt nghi kỵ.Ngày hôm sau, Đức Chúa Trời để cho ác thần nhập vào vua Sau-lơ, vua nói lảm nhảm trong nhà như người khùng. Trong khi Đa-vít gảy đàn như thường ngày, vua Sau-lơ đang cầm cây giáo trong tay, bỗng vua phóng giáo đi, trong lòng tự nghĩ: “Ta sẽ ghim Đa-vít vào tường!” Nhưng Đa-vít né người, tránh khỏi mũi giáo hai lần.Vua Sau-lơ bắt đầu sợ Đa-vít, vì CHÚA ở với Đa-vít, và đã bỏ vua. Vua Sau-lơ tìm cách đẩy Đa-vít xa khỏi mình, đặt chàng chỉ huy ngàn quân. Đa-vít thường cầm quân ra vào nơi trận địa. Trận nào Đa-vít cũng thắng, vì CHÚA ở cùng chàng. Thấy Đa-vít chiến thắng oanh liệt, vua Sau-lơ càng thêm sợ hãi. Nhưng toàn dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều kính mến Đa-vít vì chàng chỉ huy họ trong chiến trận.Đa-vít Làm Phò Mã Vua Sau-lơVua Sau-lơ tự nhủ: “Chính tay ta không nên hại nó, nhưng thà để quân Phi-li-tin hại nó thì hơn.” Do đó, vua Sau-lơ bảo Đa-vít: “Mê-ráp là con gái lớn của ta. Ta sẵn sàng gả nó cho con nếu con tự tỏ mình là chiến sĩ anh dũng và tham gia các trận chiến của CHÚA.” Đa-vít thưa: “Tâu bệ hạ, con là ai? Dòng họ con, gia tộc của cha con là gì trong Y-sơ-ra-ên mà con được làm phò mã vua?” Nhưng khi đến lúc vua Sau-lơ phải gả cô Mê-ráp, con gái mình, cho Đa-vít, thì vua lại gả cô cho Át-ri-ên, người thành Mê-hô-la.Trong khi đó, cô Mi-canh, thứ nữ vua Sau-lơ, đem lòng yêu Đa-vít. Người ta tâu cho vua Sau-lơ hay, tin này vừa lòng vua, vì vua nghĩ thầm: “Ta sẽ gả nó cho Đa-vít, nó sẽ trở thành cái bẫy khiến Đa-vít sa vào tay quân Phi-li-tin.” Vua Sau-lơ bảo Đa-vít lần thứ nhì: “Hôm nay con sẽ làm phò mã ta.” Vua Sau-lơ ra lệnh cho triều thần: “Các ngươi hãy nói kín với Đa-vít như thế này: ‘Anh được lòng nhà vua, và triều thần ai cũng quí mến anh. Anh nên làm phò mã nhà vua bây giờ đi.’ ” Triều thần vua Sau-lơ rỉ tai Đa-vít những lời ấy. Đa-vít đáp: “Các ông tưởng làm phò mã nhà vua là chuyện nhỏ sao, trong khi tôi chỉ là một người nghèo nàn, vô danh tiểu tốt?” Triều thần vua Sau-lơ về tâu lên vua lời đáp của Đa-vít. Vua Sau-lơ truyền: “Các ngươi hãy bảo Đa-vít: ‘Nhà vua không đòi sính lễ gì khác ngoài một trăm bao qui đầu18:25 Lớp da bọc đầu dương vật của người Phi-li-tin để trả thù quân địch của nhà vua.’ ” Vua Sau-lơ tính thế nào Đa-vít cũng sẽ rơi vào tay quân Phi-li-tin.Khi triều thần thuật lại những lời ấy cho Đa-vít, chàng bằng lòng nộp sính lễ như trên để làm phò mã vua. Trước khi hết hạn, Đa-vít đi với thuộc hạ đánh giết hai trăm người Phi-li-tin. Đa-vít mang qui đầu của chúng về, đếm đủ số nộp cho vua để trở thành phò mã vua. Vua Sau-lơ đành phải gả cô Mi-canh, con gái mình, cho Đa-vít.Khi vua Sau-lơ nhận biết rõ ràng CHÚA ở với Đa-vít, và cô Mi-canh, con gái vua, yêu Đa-vít, vua càng thêm sợ Đa-vít, và suốt đời mình, vua trở thành kẻ thù của Đa-vít.Lúc bấy giờ các quan tướng Phi-li-tin thường đem quân ra đánh dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi khi có chiến tranh, Đa-vít đều lập chiến công nhiều hơn hết thảy các triều thần của vua Sau-lơ nên tiếng tăm Đa-vít càng lừng lẫy.Giô-na-than Khuyên Can Vua Sau-lơVua Sau-lơ giục Giô-na-than, con vua, và toàn thể triều thần giết Đa-vít. Nhưng Giô-na-than, con vua Sau-lơ, rất mến phục Đa-vít. Giô-na-than báo cho Đa-vít: “Vua Sau-lơ, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy giữ chừng, ở nơi khuất kín và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng nơi anh đang ẩn, và tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh.”Vậy Giô-na-than nói tốt về Đa-vít với vua Sau-lơ, cha mình, rồi anh khuyên cha: “Con xin vua cha đừng phạm tội hại tôi tớ cha là anh Đa-vít, vì anh không có phạm tội làm hại cha. Trái lại, trong mọi việc anh làm đều có lợi cho cha rất nhiều. Anh đã liều mạng giết tên Phi-li-tin, và CHÚA đã cho toàn dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Cha đã nhìn thấy và vui mừng. Vậy sao cha nỡ phạm tội đổ máu vô tội mà giết anh Đa-vít vô cớ?” Vua Sau-lơ nghe lời Giô-na-than. Vua thề: “Có CHÚA Hằng Sống chứng cho ta, nó sẽ không bị giết.”Bấy giờ Giô-na-than gọi Đa-vít, thuật lại cho chàng nghe mọi việc, rồi dẫn chàng đến trình diện vua Sau-lơ. Đa-vít tiếp tục phục vụ vua như trước.Đa-vít Được Mi-canh Cứu ThoátChiến tranh lại nổi lên. Đa-vít ra trận chiến đấu với quân Phi-li-tin. Chàng đánh chúng thua nặng, chúng phải bỏ chạy.Sau đó, CHÚA để cho ác thần nhập vào vua Sau-lơ. Vua đang ngồi trong nhà, tay cầm cây giáo, và Đa-vít đang gẩy đàn. Vua Sau-lơ định dùng cây giáo ghim Đa-vít vào tường, nhưng Đa-vít né người tránh khỏi, nên vua Sau-lơ cắm cây giáo vào tường. Đa-vít bỏ chạy và trốn thoát ngay đêm ấy.Nhưng vua Sau-lơ sai người đến nhà Đa-vít để canh giữ chàng và giết chàng sáng hôm sau. Mi-canh, vợ Đa-vít, khuyên chồng: “Nếu anh không trốn thoát đêm nay, ngày mai anh sẽ bị giết.” Mi-canh thòng Đa-vít xuống qua cửa sổ. Chàng chạy trốn và thoát được. Mi-canh lấy pho tượng thần đặt lên giường, để một chiếc gối lông dê nơi đầu, rồi phủ áo lên.Khi vua Sau-lơ sai người đến bắt Đa-vít, cô nói với họ: “Nhà tôi đang bệnh.” Nhưng vua Sau-lơ lại sai người đến thăm Đa-vít và dặn họ: “Cứ khiêng Đa-vít trên giường lên đây cho ta, để ta giết nó.” Những người này vào, thấy tượng thần trên giường với chiếc gối lông dê nơi đầu! Vua Sau-lơ trách Mi-canh: “Sao con gạt ta như vậy, để cho kẻ thù ta trốn thoát?” Mi-canh thưa với vua Sau-lơ: “Chính anh ấy bảo con: ‘Để cho anh đi, nếu không, anh sẽ giết em!’ ”Vua Sau-lơ Đến Thành Ra-ma Tìm Đa-vítTrong khi đó, Đa-vít trốn thoát và đến thành Ra-ma tìm ông Sa-mu-ên. Chàng thuật lại hết cho ông nghe cách vua Sau-lơ đối xử với chàng như thế nào. Rồi chàng đi với ông Sa-mu-ên đến ở tại Na-giốt.19:18 Chưa biết rõ địa danh này ở đâu; có thể đây là danh từ chung để chỉ mấy cái chòi dùng làm chỗ ở cho các tiên triCó người báo cho vua Sau-lơ biết Đa-vít đang ở tại Na-giốt, thuộc thành Ra-ma. Vua Sau-lơ sai người đến bắt Đa-vít. Những người được vua sai đi thấy đoàn tiên tri đang hăng say nhảy múa và nói tiên tri, có ông Sa-mu-ên đứng đầu. Thần của Đức Chúa Trời chiếm ngự họ, và họ cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Vua Sau-lơ hay tin đó lại sai một toán người khác đến, họ cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Vua Sau-lơ lại sai một toán thứ ba đến, những người này cũng hăng say nhảy múa và nói tiên tri. Bấy giờ vua đích thân đến thành Ra-ma. Khi đến giếng nước lớn tại Sê-cư, vua hỏi: “Ông Sa-mu-ên và Đa-vít đang ở đâu?” Có người nói cho vua biết họ đang ở Na-giốt, thuộc thành Ra-ma.Vua liền đi đến Na-giốt thuộc thành Ra-ma. Vua đang đi, chính vua cũng bị thần của Đức Chúa Trời chiếm ngự, vua vừa đi vừa hăng say nhảy múa và nói tiên tri cho đến khi vua tới Na-giốt, thuộc thành Ra-ma. Chính vua cũng cởi quần áo ra, hăng say nhảy múa và nói tiên tri trước mặt ông Sa-mu-ên. Rồi vua ngã vật xuống, nằm trần truồng suốt ngày suốt đêm hôm ấy. Vì thế mới có câu: “Vua Sau-lơ cũng ở trong số các tiên tri sao?”Giô-na-than Giúp Đỡ Đa-vítĐa-vít trốn khỏi Na-giốt thuộc thành Ra-ma, đến gặp Giô-na-than, và hỏi: “Tôi có làm gì nên tội? Tôi có lỗi gì với vua cha anh mà vua tìm cách giết tôi?” Giô-na-than đáp: “Làm gì có chuyện đó! Cha tôi không giết anh đâu! Cha tôi làm việc gì, dù lớn hoặc nhỏ, cũng cho tôi hay. Không lẽ nào cha tôi lại giấu tôi việc này? Không có đâu!”Đa-vít quả quyết: “Vua biết rõ anh thương tôi nên vua tự nghĩ: ‘Không nên cho Giô-na-than hay, kẻo nó buồn.’ Thật như CHÚA Hằng Sống, và thật như anh đang sống đây, tôi xin thề chỉ có một bước ngăn cách tôi với sự chết thôi!”Bấy giờ Giô-na-than nói: “Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì anh muốn.”Đa-vít đề nghị: “Mai là ngày lễ Trăng Mới,20:5 Ctd: ngày đầu tháng theo lệ thường tôi phải dự tiệc với vua. Nhưng xin anh cho tôi ra đi, tôi sẽ trốn ngoài đồng cho đến chiều.20:5 Nt: chiều ngày kiaNếu vua để ý thấy tôi vắng mặt, xin anh thưa lại giùm: ‘Đa-vít năn nỉ con cho phép nó về quê gấp, vì nơi đó, là thành Bết-lê-hem, cả gia tộc nó mừng lễ dâng sinh tế hằng năm.’ Nếu vua nói: ‘Tốt’ tức là tôi tớ anh được bình an vô sự; còn nếu vua nổi giận, thì anh biết chắc vua quyết tâm hại tôi. Xin anh thương tình giữ vẹn lời hứa với tôi tớ anh vì anh đã kết ước với tôi tớ anh trong danh CHÚA. Nếu tôi có phạm tội ác nào, xin chính anh giết tôi đi, chớ đừng đem tôi nộp cho vua.”Giô-na-than đáp: “Anh đừng nghĩ vớ vẩn! Nếu tôi biết rõ cha tôi quyết tâm hại anh, lẽ nào tôi không cho anh hay?” Đa-vít hỏi: “Ai sẽ cho tôi hay nếu vua trả lời cách bực dọc?” Giô-na-than đáp: “Chúng ta hãy đi ra ngoài đồng.”Cả hai cùng đi ra ngoài đồng.Giô-na-than nói tiếp: “Có CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, làm chứng cho tôi. Ngày mai, hoặc ngày kia, vào giờ này, tôi sẽ dò hỏi ý cha tôi. Nếu cha tôi có ý tốt đối với anh, tôi sẽ sai người cho anh hay. Cầu xin CHÚA phạt tôi nặng nề nếu cha tôi có ý hại anh, mà tôi không báo cho anh hay, để anh ra đi bình an. Cầu xin CHÚA ở với anh như Ngài đã ở với cha tôi. Lúc bấy giờ, nếu tôi còn sống, xin anh đối xử với tôi bằng tình yêu trung kiên của CHÚA, để tôi khỏi phải chết. Và xin anh tiếp tục bày tỏ tình yêu trung kiên đối với con cháu tôi đời đời, ngay khi CHÚA lần lượt tiêu diệt mọi kẻ thù của anh khỏi mặt đất.”Vậy, Giô-na-than lập giao ước với Đa-vít và gia đình chàng: “Cầu xin CHÚA trừng phạt kẻ thù của Đa-vít.”20:16 Có nghĩa là: “Con cháu Đa-vít.”Giô-na-than lại bắt Đa-vít thề yêu thương anh nữa, vì chính anh, Giô-na-than, yêu thương Đa-vít như chính mình.Giô-na-than nói tiếp: “Mai là ngày lễ Trăng Mới, người ta sẽ thấy vắng anh vì chỗ anh trống. Đến ngày thứ ba (tính từ ngày hôm nay, tức là ngày mốt), anh xuống đến nơi anh ẩn mình ngày hôm trước, và đợi cạnh bên tảng đá Ê-xen.20:19 Có nghĩa là “ra đi.”Phần tôi, tôi sẽ bắn ba mũi tên cạnh bên đó, như thể bắn vào bia. Rồi tôi sẽ sai đầy tớ đi nhặt tên. Nếu tôi bảo nó: ‘Kìa, mũi tên ở phía này, con lui lại lượm đi,’ có nghĩa là mọi sự bình an, anh có thể trở về. Có CHÚA Hằng Sống làm chứng, tôi bảo đảm là anh sẽ không gặp nguy hiểm. Còn nếu tôi bảo đầy tớ: ‘Kìa, mũi tên ở đằng kia, xa hơn,’ thì anh phải lánh đi, vì CHÚA sai anh đi. Còn về lời hứa nguyện chúng ta đã hứa với nhau, có CHÚA ở giữa chúng ta mãi mãi.”Vậy Đa-vít ẩn mình ngoài đồng.Đến ngày lễ Trăng Mới, vua ngồi vào bàn tiệc.Nhà vua ngồi chỗ mình, như thường lệ, cạnh bên tường. Giô-na-than ngồi đối diện cha,20:25 Dịch theo LXX; nt: đứng dậy tướng Áp-ne ngồi cạnh vua, nhưng chỗ của Đa-vít thì bỏ trống. Hôm ấy, vua Sau-lơ không nói gì cả, vì vua tự nghĩ: “Chắc có chuyện gì xảy ra cho Đa-vít, nó không sạch để đến dự lễ, vì nó chưa được thanh tẩy.” Qua ngày hôm sau, tức là ngày thứ nhì trong dịp lễ Trăng Mới, thấy chỗ của Đa-vít vẫn còn trống, vua Sau-lơ hỏi Giô-na-than, con mình: “Tại sao con trai Y-sai không đến dùng bữa, cả hôm qua lẫn hôm nay?”Giô-na-than thưa: “Đa-vít năn nỉ con cho phép anh ấy về Bết-lê-hem. Anh ấy nói: ‘Xin anh cho phép tôi ra đi. Bộ tộc chúng tôi tổ chức lễ dâng sinh tế trong thành, và anh tôi bảo tôi phải về dự lễ. Vậy, nếu anh thương tôi, xin anh cho phép tôi về thăm gia đình.’20:29 Nt: các anh tôi Vì thế anh ấy không đến dự tiệc với cha được.”Vua Sau-lơ giận dữ mắng Giô-na-than: “Thật là một đứa con hư đốn!20:30 Nt: con trai của đàn bà hư thân mất nết Ta biết ngươi chọn con trai Y-sai làm bạn, chỉ để chuốc nhục vào thân và gây nhục cho mẹ ngươi đã sanh ngươi ra! Ngươi nên nhớ rằng ngày nào con trai Y-sai còn sống trên đất này, ngươi không chắc gì được lên ngôi. Bây giờ hãy sai người đi bắt nó đem về đây cho ta, vì nó phải chết!” Giô-na-than hỏi cha: “Tại sao anh ấy phải chết? Anh ấy đã làm gì?” Vua Sau-lơ giương cây giáo lên,20:33 Dịch theo LXX; nt: phóng cây giáo định đâm Giô-na-than. Lúc ấy Giô-na-than mới biết rõ cha mình quyết định giết Đa-vít.Giô-na-than nổi giận, đứng dậy rời bàn tiệc. Hôm ấy, ngày thứ hai trong dịp lễ Trăng Mới, anh không ăn gì cả, vì anh lo buồn cho Đa-vít bị cha anh sỉ nhục.Sáng hôm sau, Giô-na-than đi với một đầy tớ nhỏ ra ngoài đồng, đến chỗ hẹn với Đa-vít. Anh bảo đầy tớ: “Ngươi chạy đi tìm những mũi tên ta bắn.” Trong khi đứa trẻ chạy, Giô-na-than bắn mũi tên vượt qua khỏi nó. Đứa trẻ chạy vừa gần đến chỗ mũi tên rơi xuống thì Giô-na-than gọi với theo: “Mũi tên ở đằng kia, xa hơn!” Giô-na-than gọi tiếp: “Mau lên, nhanh lên, đừng chần chờ!” Người đầy tớ của Giô-na-than nhặt mũi tên đem về cho chủ, không hề biết chuyện gì xảy ra, chỉ có Giô-na-than và Đa-vít biết mà thôi. Giô-na-than giao khí giới cho đầy tớ mang về thành.Khi đầy tớ đi rồi, Đa-vít đứng dậy từ phía sau tảng đá, quì sấp mình xuống đất ba lần trước mặt Giô-na-than. Hai người bạn ôm nhau hôn và khóc nức nở cho đến khi Đa-vít dằn được cơn xúc động.20:41 Nt: tối nghĩaGiô-na-than từ giã Đa-vít: “Chúc anh đi bình an, vì cả hai chúng ta đã nhân danh CHÚA thề nguyện với nhau: ‘Xin CHÚA ở giữa anh và tôi, giữa dòng dõi anh và dòng dõi tôi, mãi mãi.’ ”Đa-vít đứng dậy ra đi, còn Giô-na-than trở về thành.Đa-vít Tại Thành NópĐa-vít đến thành Nóp tìm thầy tế lễ A-hi-mê-léc. Thầy tế lễ ra đón Đa-vít, run sợ hỏi: “Sao ông đi một mình, không có ai đi theo ông cả?” Đa-vít đáp: “Vua giao công tác cho tôi và dặn: ‘Đừng cho ai biết gì về công tác ta sai phái ngươi đi.’ Vì thế tôi hẹn với quân lính đến nơi kia rồi. Bây giờ ông có sẵn thức ăn gì không? Xin ông cho tôi năm ổ bánh hoặc có gì cũng được.”Thầy tế lễ đáp: “Tôi không có sẵn bánh thường, chỉ có bánh thánh thôi, miễn là lính của ông giữ mình, không gần gũi đàn bà.”Đa-vít nói: “Dĩ nhiên là chúng tôi không gần gũi đàn bà, như xưa nay, mỗi khi tôi ra trận. Dù đi công tác thông thường, ngay cả trang bị của quân lính, như binh phục và khí giới, đều được biệt riêng và thánh hóa, huống chi hôm nay khi quân lính sẽ được thánh hóa chung với trang bị của mình?” Bấy giờ thầy tế lễ cho Đa-vít bánh thánh, vì tại đó không có bánh nào khác ngoài bánh đã được bày ra trên bàn thánh để dâng lên CHÚA và được đem đi khỏi để thay bánh mới vào, trong ngày thay bánh.Hôm ấy, một đầy tớ của vua Sau-lơ cũng có mặt tại đó, vì anh đang bị giữ lại trong đền thờ.21:7 Nt: không ghi rõ “bị giữ lại” vì lý do gì Anh tên là Đô-e, người Ê-đôm. Anh là người mạnh dạn nhất trong những người chăn chiên của vua Sau-lơ.Đa-vít hỏi thầy tế lễ: “Ông có cây giáo hoặc thanh gươm nào ở đây không? Công tác vua giao cấp bách quá, tôi không kịp mang theo thanh gươm hay khí giới gì khác cả.” Thầy tế lễ đáp: “Có thanh gươm của Gô-li-át, người Phi-li-tin bị ông giết tại thung lũng Ê-la. Kìa thanh gươm đó bọc trong chiếc áo, để phía sau ê-phót. Nếu ông cần thì cứ lấy mà dùng, vì ở đây không có khí giới nào khác.” Đa-vít nói: “Không có gươm nào tốt bằng! Ông đưa gươm cho tôi.”Đa-vít Tại Thành GátNgày hôm ấy, Đa-vít tiếp tục trốn vua Sau-lơ, đi đến thành Gát gặp vua A-kích. Triều thần vua A-kích tâu với vua: “Có phải đây là Đa-vít, vua xứ ấy không? Có phải người ta hát về Đa-vít này trong khi nhảy múa:‘Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn!’ hay không?”Đa-vít lo ngại về những lời nói đó và đâm ra sợ vua A-kích lắm. Vậy, trước mặt họ, Đa-vít giả bộ dại khờ; chàng cư xử như người khùng khi họ tìm cách giữ cho chàng yên; chàng viết nguệch ngoạc trên các cánh cửa và để nước miếng chẩy xuống râu. Vua A-kích bảo các triều thần: “Các ngươi thấy tên này điên rồi. Sao lại dẫn về đây cho ta? Ta có thiếu người khùng đâu mà các ngươi lại dẫn nó về làm trò khùng điên quấy rầy ta? Lẽ nào cho tên này vào cung ta?”Đa-vít Tại Hang Đá A-đu-lamĐa-vít rời khỏi đó, trốn đến hang đá ở A-đu-lam. Các anh Đa-vít và cả dòng họ cha chàng hay tin đều xuống đó ở với chàng. Ngoài ra, tất cả những người cùng khốn, nợ nần, bất mãn, khoảng chừng 400 người, đều tụ họp chung quanh Đa-vít, và chàng chỉ huy họ. Từ đó, Đa-vít đến Mít-bê thuộc xứ Mô-áp, và thưa với vua Mô-áp: “Xin vua cho phép cha mẹ tôi đến ở với vua cho đến khi nào tôi biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì cho tôi.” Đa-vít dẫn cha mẹ đến triều kiến vua Mô-áp, và cha mẹ chàng sống trong triều vua suốt thời gian chàng ở trong hang đá. Một hôm, tiên tri Gát bảo Đa-vít: “Anh không nên ở trong hang đá này. Anh hãy trở về xứ Giu-đa ngay.” Đa-vít liền ra đi, đến khu rừng Hê-rết.Các Thầy Tế Lễ Và Dân Thành Nóp Bị Tàn SátMột hôm, vua Sau-lơ đang ngồi dưới gốc cây liễu, trên ngọn đồi cao tại Ghi-bê-a. Vua cầm giáo trong tay, và tất cả các triều thần chầu chực chung quanh vua. Vua nghe tin người ta đã tìm ra Đa-vít và những người theo chàng. Vua Sau-lơ hỏi các triều thần đang chầu chực chung quanh: “Các người Bên-gia-min, hãy nghe đây. Con trai Y-sai có hứa ban phát đồng ruộng và vườn nho cho tất cả các người không? Nó có hứa cho các người chỉ huy 1,000 quân hoặc 100 quân không? Vậy sao các người lại âm mưu phản ta? Không ai tiết lộ cho ta biết là con trai ta đã lập giao ước với con trai Y-sai! Không một ai trong các ngươi quan tâm đến ta và cho ta biết khi con trai ta xúi đầy tớ ta nổi dậy phục kích hại ta như ngày nay!”Trong các triều thần chầu chực chung quanh vua Sau-lơ có Đô-e, người Ê-đôm. Đô-e lên tiếng: “Tôi thấy con trai Y-sai đến thành Nóp gặp ông A-hi-mê-léc, con ông A-hi-túp. Ông A-hi-mê-léc cầu hỏi ý CHÚA cho nó, cung cấp lương thực cho nó, rồi lại giao cho nó thanh gươm của Gô-li-át, người Phi-li-tin.”Bấy giờ vua sai đòi thầy tế lễ A-hi-mê-léc, con ông A-hi-túp, cùng với tất cả các thầy tế lễ thuộc dòng họ cha ông tại Nóp. Tất cả những người đó đều đến chầu vua. Vua Sau-lơ bảo: “Con của A-hi-túp, hãy nghe ta!” Ông thưa: “Tâu vua, có tôi đây.” Vua Sau-lơ hỏi: “Tại sao ngươi toa rập với con trai Y-sai phản ta? Ngươi tiếp tế lương thực cho nó, giao thanh gươm cho nó, rồi lại cầu hỏi ý Đức Chúa Trời cho nó, để nó nổi dậy chống lại ta và phục binh hại ta như ngày nay!”Ông A-hi-mê-léc tâu: “Trong tất cả triều thần của vua, có ai trung thành bằng Đa-vít? Đa-vít là phò mã của vua, chỉ huy toán cận vệ22:14 Nt: những người buộc phải tuyệt đối vâng lời vua của vua, lại được triều đình kính nể. Có phải hôm nay là lần đầu tiên tôi cầu hỏi ý Đức Chúa Trời cho Đa-vít không? Không đâu! Xin vua đừng buộc tội tôi tớ vua, cũng đừng buộc tội ai trong toàn thể dòng họ cha tôi, vì tôi tớ vua không hề biết một điều gì, dù nhỏ hay lớn, về tất cả chuyện này.” Nhưng vua đáp: “A-hi-mê-léc, ngươi và toàn thể dòng họ cha ngươi phải chết.”Vua bảo các thị vệ đứng cạnh bên: “Hãy giết các thầy tế lễ của CHÚA, vì họ cùng toa rập với Đa-vít. Họ biết nó chạy trốn mà không hề cho ta hay!” Nhưng triều thần không chịu giơ tay lên đánh giết các thầy tế lễ của CHÚA.Vua bảo Đô-e: “Ngươi giết các thầy tế lễ đi!” Đô-e, người Ê-đôm, xông lại và tự nó giết các thầy tế lễ; ngày hôm đó, nó tàn sát 85 người được quyền mang ê-phót.22:18 Dịch theo LXX; nt: ê-phót bằng vải lanhNó cũng dùng lưỡi gươm giết dân thành Nóp, là thành của các thầy tế lễ. Từ đàn ông đến đàn bà, từ trẻ thơ đến em bé còn bú, và bò, lừa, chiên, tất cả đều bị lưỡi gươm sát hại.Nhưng A-bia-tha, một trong những người con ông A-hi-mê-léc, cháu ông A-hi-túp, trốn thoát và đến gặp Đa-vít. A-bia-tha thuật cho Đa-vít biết vua Sau-lơ giết các thầy tế lễ của CHÚA. Đa-vít bảo A-bia-tha: “Khi Đô-e, người Ê-đôm, có mặt tại đó ngày hôm ấy, tôi biết thế nào nó cũng tâu lại cho vua Sau-lơ hay. Tôi chịu trách nhiệm về sự chết của tất cả những người trong gia đình anh. Anh cứ ở đây với tôi, đừng sợ gì cả, vì người tìm hại mạng sống tôi cũng là người tìm hại mạng sống anh. Ở bên tôi, anh sẽ được an toàn.”Đa-vít Giải Cứu Dân Thành Kê-i-laCó người báo tin cho Đa-vít: “Kìa, người Phi-li-tin đang tấn công thành Kê-i-la và cướp phá các sân đạp lúa.” Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi đánh những người Phi-li-tin này không?” CHÚA bảo Đa-vít: “Con hãy đi đánh quân Phi-li-tin và giải cứu dân thành Kê-i-la.”Tuy nhiên, những người theo Đa-vít bàn ra: “Ở ngay đây, trong xứ Giu-đa, mà chúng ta còn sợ, huống chi đi Kê-i-la giao chiến với quân Phi-li-tin!” Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA một lần nữa. CHÚA bảo: “Con hãy đi ngay xuống Kê-i-la, vì Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.” Đa-vít liền đi cùng những người theo mình xuống Kê-i-la giao chiến với quân Phi-li-tin, lùa súc vật của chúng đi, và đánh chúng một đòn ác liệt. Thế là Đa-vít giải cứu được dân thành Kê-i-la.Khi A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc, trốn đến với Đa-vít, ông có mang theo ê-phót trong tay, và cùng đi với chàng xuống Kê-i-la.Vua Sau-lơ nghe tin Đa-vít đến Kê-i-la, vua tự nhủ: “Đức Chúa Trời đã nộp nó vào tay ta, vì nó đã tự giam mình khi vào một thành có cửa đóng then cài.” Vua Sau-lơ triệu tập toàn lực lượng chiến binh đi xuống Kê-i-la bao vây Đa-vít và những người theo chàng.Khi Đa-vít biết được vua Sau-lơ mưu tính việc ác để hại mình, chàng bảo thầy tế lễ A-bia-tha: “Anh mang ê-phót lại đây!” Đa-vít cầu hỏi: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, con đây là tôi tớ Ngài có nghe tin vua Sau-lơ tìm cách đến hủy diệt thành Kê-i-la vì con. Dân thành Kê-i-la có nộp con vào tay vua không? Vua Sau-lơ có định xuống như tôi tớ Ngài nghe nói không? Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin cho tôi tớ Ngài biết.” CHÚA bảo: “Nó sẽ xuống.” Đa-vít cầu tiếp: “Dân thành Kê-i-la có nộp con và những người theo con vào tay vua Sau-lơ không?” CHÚA bảo: “Họ sẽ nộp.” Đa-vít và những người theo chàng, khoảng 600 người, liền ra khỏi thành Kê-i-la, và đi rày đây mai đó. Khi vua Sau-lơ nghe tin Đa-vít trốn thoát khỏi Kê-i-la, vua đình lại, không kéo binh xuống đó nữa.Giô-na-than Khích Lệ Đa-vítĐa-vít ẩn náu23:14 Nt: ở trong đồng vắng, trong các nơi hiểm hóc trên đồi núi sa mạc Xíp. Vua Sau-lơ cứ lùng bắt chàng ngày này qua ngày kia, nhưng Đức Chúa Trời không để cho Đa-vít rơi vào tay vua. Đa-vít đang ở Hô-rết, trong đồng vắng Xíp khi chàng hay tin23:15 Nt: thấy vua Sau-lơ ra quân để tìm cách giết hại chàng. Bấy giờ Giô-na-than, con vua Sau-lơ, đến Hô-rết thăm Đa-vít và khuyên chàng vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời. Giô-na-than bảo Đa-vít: “Anh đừng sợ. Bàn tay của vua Sau-lơ, cha tôi, không thể nào đụng đến anh được. Chính anh sẽ làm vua dân Y-sơ-ra-ên, còn tôi sẽ đứng thứ nhì, sau anh một bậc. Ngay cả vua Sau-lơ, cha tôi, cũng biết điều ấy.” Sau khi hai người lập giao ước với nhau trước mặt CHÚA, Đa-vít tiếp tục ở lại Hô-rết, còn Giô-na-than trở về nhà.Vua Sau-lơ Săn Đuổi Đa-vítMột số người vùng Xíp lên Ghi-bê-a tâu với vua Sau-lơ: “Đa-vít đang lẩn trốn giữa chúng tôi, trong các hang hiểm hóc ở Hô-rết, trên đồi Ha-ki-la, phía nam Giê-si-môn. Vậy bây giờ, nếu vua muốn xuống vùng đất chúng tôi, xin vua cứ xuống. Chúng tôi xin chịu trách nhiệm nộp nó vào tay vua.” Vua Sau-lơ đáp: “Cầu xin CHÚA ban phước cho các ngươi vì các ngươi đã thương xót ta. Các ngươi hãy đi, dò hỏi cho chắc chắn, nhìn xem nơi nào nó đặt chân tới, ai đã thấy nó ở đó, vì ta nghe nói nó mưu mô xảo quyệt lắm. Các ngươi hãy tìm cho ra tất cả những nơi nào nó có thể ẩn núp, rồi trở về cho ta biết tin tức chắc chắn để ta đi với các ngươi. Nếu nó còn ở trong xứ, ta sẽ cho lùng khắp các bộ tộc Giu-đa để tìm bắt nó cho kỳ được.”Họ liền trở về đồng vắng Xíp trước vua Sau-lơ. Đa-vít và những người theo chàng ở trong sa mạc Ma-ôn, trong đồng hoang phía nam Giê-si-môn. Vua Sau-lơ cầm quân đi lùng bắt Đa-vít. Đa-vít hay tin, đi xuống vùng núi non hiểm trở trong sa mạc Ma-ôn. Vua Sau-lơ nghe tin, đuổi theo Đa-vít trong sa mạc Ma-ôn.Vua Sau-lơ đi phía bên này núi, còn Đa-vít và những người theo chàng đi phía bên kia núi. Đa-vít vội vã muốn thoát khỏi vua Sau-lơ, nhưng vua Sau-lơ và quân lính đang siết chặt vòng vây quanh Đa-vít và những người theo chàng để bắt họ, khi một sứ giả đến tâu với vua Sau-lơ: “Xin vua về gấp, vì quân Phi-li-tin cướp phá đất nước.” Vua Sau-lơ ngừng đuổi theo Đa-vít, và quay về giao chiến với quân Phi-li-tin. Vì thế người ta gọi chỗ này là Tảng Đá Phân Chia. Đa-vít rời khỏi đó, đến ẩn náu trong các hóc đá hiểm trở vùng En-ghê-đi.Sau khi vua Sau-lơ đánh đuổi quân Phi-li-tin xong, trở về, có người tâu với vua: “Đa-vít ở trong sa mạc En-ghê-đi.” Vua Sau-lơ chọn 3,000 quân tinh nhuệ trong toàn thể dân Y-sơ-ra-ên, dẫn họ đi lùng bắt Đa-vít và những người theo chàng, ở phía đông các mỏm đá Sơn Dương. Đi ngang qua các chuồng chiên bên đường, vua Sau-lơ thấy một hang đá nên vào đó đi việc cần. Đa-vít và những người theo chàng đang ngồi núp trong nơi sâu thẳm của chính hang đó.Những người theo Đa-vít thì thầm với chàng: “Đây là ngày CHÚA phán trước với ông: ‘Ta sẽ giao kẻ thù của con vào tay con, và con được quyền xử với nó tùy ý con.’ ” Đa-vít đến gần, cắt lén vạt áo choàng của vua Sau-lơ. Nhưng ngay sau đó, Đa-vít tự trách mình vì đã cắt vạt áo choàng của vua Sau-lơ. Đa-vít nói với những người theo chàng: “Cầu xin CHÚA phạt tôi nếu tôi làm điều này, nghĩa là nếu tôi ra tay hại chủ tôi là người được CHÚA xức dầu, vì vua chính là người được CHÚA xức dầu.” Đa-vít dùng những lời lẽ ấy thuyết phục những người theo chàng, không cho họ xông vào vua Sau-lơ. Vua Sau-lơ ra khỏi hang và tiếp tục lên đường.Sau đó, Đa-vít cũng đứng dậy ra khỏi hang đá, gọi với theo vua Sau-lơ: “Tâu vua, chúa con!” Vua Sau-lơ nhìn ngoái lại đằng sau, thấy Đa-vít cúi sấp mặt xuống đất. Đa-vít thưa với vua Sau-lơ: “Tại sao cha nghe lời người ta đồn rằng con muốn hại cha? Ngày nay, chính mắt cha thấy CHÚA đã giao mạng cha vào tay con trong hang đá. Người ta xúi con giết cha, nhưng con không nỡ, và con tự nhủ: ‘Ta không nên ra tay hại chủ ta vì người được CHÚA xức dầu.’ Thưa cha, xin cha nhìn xem, đây là vạt áo choàng của cha trong tay con. Cha thấy con chỉ cắt vạt áo choàng của cha nhưng con không giết cha. Cha cũng đủ hiểu rằng con không có ý hại cha hoặc phản cha. Con không hề có lỗi với cha, nhưng cha lại săn đuổi con để giết con. Cầu xin CHÚA phân xử giữa con và cha. Xin CHÚA báo thù cho con, vì chính tay con sẽ không đụng đến cha. Như tục ngữ người xưa có nói: ‘Điều ác ra từ kẻ ác,’ tay con sẽ không đụng đến cha.Vua Y-sơ-ra-ên đem quân ra đánh đuổi ai? Cha săn đuổi ai? Một con chó chết! Một con bọ chét! Cầu xin CHÚA làm trọng tài phân xử giữa con và cha! Cầu xin Ngài đoái xem, biện hộ cho con, và giải cứu con khỏi tay cha!”Khi Đa-vít vừa dứt lời, vua Sau-lơ hỏi: “Có phải đó là tiếng của Đa-vít, con trai ta không?” Rồi vua Sau-lơ òa lên khóc. Vua lại nói với Đa-vít: “Con cư xử phải hơn cha, vì con đối đãi tốt với cha trong khi cha đối xử tệ với con. Chính con đã tỏ cho cha biết ngày nay con đối đãi tốt với cha như thế nào. CHÚA đã nộp cha vào tay con, nhưng con không giết cha. Cá ai bắt gặp kẻ thù mình mà lại thả cho đi bình an không? Cầu xin CHÚA ban thưởng con dồi dào vì con đối xử tốt với cha ngày nay. Bây giờ cha biết chắc chắn con sẽ làm vua cai trị dân Y-sơ-ra-ên, và ngôi vua sẽ vững bền trong tay con. Vậy con hãy nhân danh CHÚA thề với cha, con sẽ không tuyệt diệt con cháu cha sau khi cha qua đời, và con cũng không xóa bỏ tên tuổi cha khỏi dòng họ tổ phụ cha.” Sau khi Đa-vít thề, vua Sau-lơ trở về nhà, còn Đa-vít và những người theo chàng rút về nơi trú ẩn.Na-banh Không Chịu Tiếp Tế Cho Đa-vítÔng Sa-mu-ên qua đời. Toàn dân Y-sơ-ra-ên họp lại than khóc và chôn cất ông tại quê hương Ra-ma.Sau đó, Đa-vít dời xuống sa mạc Pha-ran.Có một người kia sống tại thành Ma-ôn nhưng có tài sản đất đai ở vùng Cạt-mên. Ông rất giàu, có 3,000 con chiên và 1,000 con dê. Hiện ông đang ở Cạt-mên coi sóc việc cắt lông chiên. Ông tên Na-banh, còn vợ ông là A-bi-ga-in. Bà vợ thông minh và xinh đẹp, trong khi ông chồng cứng cỏi và gian ác. Ông thuộc về bộ tộc Ca-lép.Đa-vít ở trong sa mạc, nghe tin ông Na-banh đang coi sóc việc cắt lông chiên, nên sai mười thanh niên đi và dặn họ: “Các anh hãy đi lên Cạt-mên, đến gặp ông Na-banh, và chuyển lời tôi chào thăm ông. Các anh hãy nói như vầy: ‘Chúc ông sống lâu! Chúc ông và quí quyến bình an! Chúc ông làm ăn phát đạt!Anh Đa-vít25:7 Nt: tôi được tin thợ đang cắt lông chiên là của ông. Suốt thời gian những người chăn chiên của ông ở với chúng tôi ở Cạt-mên, chúng tôi không hề quấy nhiễu họ và họ không mất mát gì cả. Ông cứ hỏi đầy tớ ông, họ sẽ nói cho ông biết. Vì chúng tôi đến với ông trong ngày lễ, xin ông thương tình chúng tôi và ban cho chúng tôi là đầy tớ ông, và cho anh Đa-vít, là con ông, bất cứ món gì ông có sẵn.’ ”Các thanh niên của Đa-vít đi gặp ông Na-banh và chuyển lời chào thăm của Đa-vít theo như mọi lời Đa-vít dặn họ. Nói xong, họ chờ đợi. Ông Na-banh đáp: “Đa-vít là ai? Con của Y-sai là ai? Dạo này có quá nhiều đầy tớ bỏ chủ trốn đi. Không lẽ ta lấy bánh, nước và thịt mấy con thú ta làm sẵn cho thợ cắt lông chiên đem cho những người ta không biết từ đâu đến?”Các thanh niên của Đa-vít quay lại đường cũ trở về, thuật lại cho Đa-vít nghe mọi lời ấy. Đa-vít liền bảo những người theo chàng: “Anh em đeo gươm vào!” Mỗi người đeo gươm mình, Đa-vít cũng đeo gươm mình. Khoảng bốn trăm người đi theo Đa-vít, còn hai trăm người kia ở lại giữ đồ đạc.Đa-vít Và A-bi-ga-inMột trong những người đầy tớ báo cho bà A-bi-ga-in, vợ ông Na-banh biết: “Ông Đa-vít có sai người từ sa mạc đến chào ông chủ nhưng ông chủ mắng xối xả vào mặt họ. Trong khi những người này đối xử rất tốt với chúng tôi. Họ không hề quấy nhiễu chúng tôi, chúng tôi không mất mát gì cả trong suốt thời gian chúng tôi chung đụng với họ ngoài đồng. Ngày và đêm, họ là bức tường che chở chúng tôi suốt thời gian chúng tôi chăn chiên và dê trong vùng họ ở. Vậy bây giờ xin bà tính xem phải làm gì, vì ông chủ và cả nhà chắc chắn sẽ mang họa; còn ông chủ hung hăng quá, không ai dám nói gì với ông cả.”Bà A-bi-ga-in vội vàng lấy hai trăm ổ bánh, hai bầu da đầy rượu, năm con chiên đã nấu nướng sẵn, năm xê-a25:18 Khoảng 35-40l. Nt: “năm xê-a”, một xê-a tương đương với bẩy lít hạt rang, một trăm chùm nho khô, hai trăm bánh trái vả khô, chất tất cả lên lưng lừa. Bà bảo các đầy tớ: “Các anh đi trước, tôi theo sau.” Nhưng bà không nói cho chồng bà, là ông Na-banh, biết gì cả. Bà đang cưỡi lừa đi xuống, khuất sau ngọn đồi, bỗng gặp Đa-vít và những người theo chàng cũng đang đi xuống về phía bà. Trên đường đi,25:21 Thêm vào cho rõ nghĩa Đa-vít đã thầm nhủ: “Ta đã phí công bảo vệ tài sản của tên này trong sa mạc! Nó không mất mát gì cả, vậy mà nó lấy oán trả ơn cho ta! Cầu xin Đức Chúa Trời phạt Đa-vít25:22 Dịch theo LXX; nt: kẻ thù của Đa-vít như thế này hoặc nặng hơn nữa, nếu đến sáng mai ta còn để cho một người nam nào trong gia đình nó sống sót!”Vừa thấy Đa-vít, bà A-bi-ga-in vội vàng xuống lừa, quì sấp xuống đất trước mặt Đa-vít. Phủ phục dưới chân Đa-vít, bà van xin: “Lỗi tại tôi, thưa ông, tại tôi! Xin ông cho phép tôi trình bày, xin ông rủ lòng nghe tôi nói. Xin ông đừng quan tâm đến Na-banh, con người hung hăng đó, vì anh ta cư xử y hệt như tên anh ta. Anh ta tên là Na-banh25:25 Nghĩa là “dại dột” và sự dại dột ở trong anh ta. Còn tôi, tôi không thấy các thanh niên do ông sai đến.Bây giờ, thưa ông, có CHÚA hằng sống, và có ông đây, ước gì kẻ thù của ông và những người tìm cách hại ông đều sẽ chịu đồng số phận với Na-banh! CHÚA đã ngăn cản, không cho ông làm đổ máu và tự trả thù cho chính mình. Và thưa ông, đây là chút quà tôi mang đến, xin được giao cho các thanh niên đi theo ông. Xin ông tha lỗi cho tôi cả gan nói dài dòng. CHÚA chắc chắn sẽ ban cho ông ngôi nước vững bền vì ông tham gia những trận chiến của CHÚA. Suốt đời ông, tai họa sẽ không bao giờ xảy đến cho ông. Nếu có người nào nổi lên săn đuổi ông và tìm cách hại mạng sống ông, CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ bảo bọc mạng sống ông trong bọc kẻ sống bên cạnh Ngài, nhưng Ngài sẽ ném đi xa mạng sống của kẻ thù ông như người ta dùng ná mà ném đá. Ngày nào CHÚA thực hiện mọi điều tốt Ngài hứa ban cho ông, và lập ông lên làm thủ lãnh dân Y-sơ-ra-ên, ước gì ông sẽ khỏi phải áy náy hay bị lương tâm cắn rứt vì đã đổ máu vô cớ và tự trả thù cho chính mình. Và khi nào CHÚA ban phước lành cho ông, xin ông nhớ đến tôi.”Đa-vít đáp lời bà A-bi-ga-in: “Tôi ca ngợi CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên vì Ngài đã sai bà đến gặp tôi hôm nay. Tôi cám ơn CHÚA và xin Ngài ban phước cho bà vì ngày hôm nay bà đã hành động sáng suốt, bà đã ngăn cản không cho tôi gây đổ máu và tự trả thù cho chính mình. Thật như CHÚA Hằng Sống là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã ngăn cản không cho tôi hại bà, nếu bà không vội vàng đến gặp tôi, thì chắc chắn không một người nam nào trong nhà Na-banh còn sống sót đến khi trời rạng sáng.”Đa-vít nhận quà bà mang đến và căn dặn: “Bà an tâm về nhà. Tôi đã nghe điều bà yêu cầu và tôi tôn trọng ý bà.”Na-banh Qua ĐờiKhi bà A-bi-ga-in về đến nhà, bà thấy ông Na-banh mở tiệc linh đình như tiệc yến vua đãi vậy. Ông Na-banh vui vẻ và say túy lúy nên bà không kể lại cho ông điều gì, dù nhỏ hay lớn, trước khi trời hừng sáng. Sáng hôm sau, chờ khi ông Na-banh tỉnh rượu, bà vợ ông mới thuật lại cho ông các sự việc ấy. Ông bị sốc nặng25:37 Nt: tim ông chết trong lòng người ông cứng đờ ra như tảng đá. Khoảng mười ngày sau, CHÚA đánh ông Na-banh và ông qua đời.Đa-vít Cưới Bà A-bi-ga-inNghe tin ông Na-banh qua đời, Đa-vít nói: “Con ca ngợi CHÚA vì Ngài đã biện hộ cho con khi Na-banh sỉ nhục con. Con cám ơn CHÚA vì Ngài đã giữ con là tôi tớ Ngài khỏi làm điều ác, và Ngài đã đổ lại trên đầu Na-banh điều ác nó làm.”Sau đó, Đa-vít sai người đi hỏi bà A-bi-ga-in làm vợ. Tôi tớ của Đa-vít đến Cạt-mên gặp bà A-bi-ga-in và thưa: “Ông Đa-vít sai chúng tôi đến đây để xin được cưới bà làm vợ.” Bà A-bi-ga-in liền quì sấp mặt xuống đất thưa: “Tôi đây sẵn sàng làm đầy tớ của ông Đa-vít để rửa chân cho các tôi tớ của chủ tôi.” Bà vội vã đứng dậy, cưỡi lừa, và cùng với năm cô tớ gái ra đi theo các sứ giả của Đa-vít và bà trở thành vợ của Đa-vít.Trước đây, Đa-vít cũng đã cưới A-hi-nô-am, người thành Gít-rê-ên. Vậy cả hai bà đều là vợ ông. Vua Sau-lơ đã gả Mi-canh, con gái vua, cũng là vợ của Đa-vít, cho Phanh-ti, con ông La-ít, người thành Ga-lim.Đa-vít Tha Chết Cho Vua Sau-lơ Lần Thứ NhìNgười Xíp đến Ghi-bê-a tâu với vua Sau-lơ: “Đa-vít đang trốn trên đồi Ha-ki-la, đối ngang đồng vắng Giê-si-môn.” Vua Sau-lơ liền đi xuống sa mạc Xíp cùng với 3,000 quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên để tìm bắt Đa-vít. Vua Sau-lơ đóng trại trên đồi Ha-ki-la, cạnh bên đường, đối ngang Giê-si-môn, còn Đa-vít ở trong sa mạc. Được tin vua Sau-lơ vào sa mạc đuổi bắt mình, Đa-vít sai người đi do thám và biết chắc vua Sau-lơ đã đến.Đa-vít đến tận nơi vua Sau-lơ đóng trại, nhìn thấy chỗ vua Sau-lơ và tướng Áp-ne, con ông Ne, là tướng chỉ huy quân đội của vua, đang nằm ngủ. Vua Sau-lơ đang nằm ngủ bên trong hàng rào phòng thủ, và quân sĩ đóng trại chung quanh vua.Đa-vít hỏi A-hi-mê-léc, người Hê-tít, và A-bi-sai, anh của Giô-áp, con bà Xê-ru-gia: “Ai muốn đi với tôi xuống nơi vua Sau-lơ đóng trại?” A-bi-sai đáp: “Cháu xin đi với cậu.”Vậy Đa-vít và A-bi-sai lẻn vào trại quân lúc ban đêm, thấy vua Sau-lơ đang nằm ngủ bên trong hàng rào phòng thủ, cây giáo vua cắm xuống đất, cạnh bên đầu. Tướng Áp-ne và binh sĩ nằm ngủ chung quanh vua. A-bi-sai nói với Đa-vít: “Hôm nay Đức Chúa Trời đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ xin cho cháu dùng cây giáo của nó ghim nó một nhát xuống đất, không cần đến nhát thứ hai.” Nhưng Đa-vít đáp: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại người được CHÚA xức dầu làm vua mà lại không bị phạt?” Đa-vít nói tiếp: “Có CHÚA Hằng Sống, cậu cam đoan với cháu, chính CHÚA sẽ kết thúc đời vua,26:10 Nt: đánh vua chết hoặc vua chết tự nhiên khi đến kỳ hạn, hoặc vua ngã xuống ngoài trận địa. Nhưng xin CHÚA gìn giữ đừng cho cậu tra tay hại người được CHÚA xức dầu. Bây giờ chúng ta chỉ lấy cây giáo cạnh bên đầu vua và bình nước rồi đi thôi.” Đa-vít lấy cây giáo và bình nước cạnh bên đầu vua Sau-lơ, rồi hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay biết gì cả, cũng không ai thức giấc. Mọi người đều ngủ, vì CHÚA làm cho họ ngủ mê.Đa-vít băng qua đồi bên kia, đứng trên đỉnh, cách xa trại quân; có một khoảng cách lớn giữa họ. Đa-vít hướng về phía các binh sĩ, lớn tiếng gọi tướng Áp-ne, con ông Ne: “Tướng Áp-ne, ông có nghe tôi không?” Tướng Áp-ne đáp: “Ngươi là ai mà dám gọi vua?”Đa-vít đáp: “Ông là bậc trượng phu, và trong nước Y-sơ-ra-ên không có ai bằng ông! Vậy tại sao ông không bảo vệ chủ ông là vua? Vì có người định ám sát vua, chủ của ông! Ông làm như vậy là không tròn bổn phận. Có CHÚA Hằng Sống chứng giám, tất cả các ông đều đáng chết vì không canh giữ chủ mình là người được CHÚA xức dầu! Bây giờ xin ông hãy xem, cây giáo của vua và bình nước cạnh bên đầu vua đâu rồi?”Vua Sau-lơ nhận ra tiếng của Đa-vít. Vua hỏi: “Đa-vít, con cha, có phải tiếng con nói đó không?” Đa-vít đáp: “Tâu vua, chính tiếng con đây.” Đa-vít thưa tiếp: “Tại sao vua cứ tiếp tục đuổi bắt tôi tớ vua? Con đã làm gì? Tay con có làm điều gì ác? Bây giờ con xin vua vui lòng nghe tôi tớ vua trình bày. Nếu CHÚA xúi giục vua hại con, nguyện xin Ngài nhậm lễ vật có mùi thơm. Còn nếu do người xúi giục, họ đáng bị CHÚA nguyền rủa, vì ngày nay họ đã đuổi con ra, không cho con ở trong xứ mà CHÚA ban cho dân Ngài, khác nào họ bảo con: ‘Hãy đi thờ phượng các thần khác!’ Ôi, xin đừng cho máu con rơi xuống đất nước ngoài, xa cách CHÚA! Tại sao vua Y-sơ-ra-ên kéo quân ra tìm bắt con, một con bọ chét? Tại sao vua săn đuổi con như người ta săn chim đa đa trên đồi núi?”Vua Sau-lơ đáp: “Cha thật đắc tội. Đa-vít, con cha, hãy trở về. Cha sẽ không bao giờ hại con nữa, vì ngày nay con đã coi trọng mạng sống cha. Thật cha hành động ngu xuẩn, cha đã sai lầm quá mức.”Đa-vít thưa: “Đây cây giáo của vua. Xin vua sai một trong các bạn trẻ sang đây lấy về. CHÚA sẽ ban thưởng mọi người tùy theo sự công chính và lòng trung thành của họ. Hôm nay CHÚA có nộp vua vào tay con, nhưng con không muốn tra tay hại vua là người được CHÚA xức dầu. Hôm nay con đã coi trọng mạng sống vua. Cầu xin CHÚA cũng coi trọng mạng sống con như vậy, và giải thoát con khỏi mọi cảnh gian nguy.”Vua Sau-lơ đáp: “Cầu xin CHÚA ban phước cho con, Đa-vít. Con sẽ làm nhiều việc trọng đại và con chắc chắn sẽ thành công.”Đa-vít đi đường mình, trong khi vua Sau-lơ trở về nhà.Đa-vít Tị Nạn Nơi Đất Người Phi-li-tinĐa-vít nghĩ thầm: “Một ngày nào đây, chắc chắn tôi sẽ phải chết bởi tay vua Sau-lơ. Không gì tốt hơn cho tôi là trốn sang đất người Phi-li-tin. Bấy giờ vua Sau-lơ sẽ mất hết hy vọng tìm bắt được tôi trong toàn lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, và tôi sẽ thoát khỏi tay vua.”Đa-vít liền cùng với 600 người theo mình vượt qua biên giới, đến với vua A-kích, con ông Ma-óc, tại thành Gát. Đa-vít và những người theo chàng, mỗi người với gia đình mình, đều ở lại thành Gát với vua A-kích. Đa-vít cũng dẫn theo hai bà vợ, bà A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên, và bà A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh, người Cạt-mên. Khi vua Sau-lơ hay tin Đa-vít đã trốn sang thành Gát, vua không còn tìm bắt chàng nữa.Đa-vít tâu với vua A-kích: “Nếu vua đẹp lòng, xin vua cho phép tôi cư ngụ trong một thành nào đó ở miền quê. Vì tôi tớ vua sao lại được ở trong hoàng thành với vua?” Ngay hôm đó, vua A-kích cho Đa-vít thành Xiếc-lác; vì thế thành Xiếc-lác thuộc về các vua Giu-đa cho đến ngày nay.Thời gian Đa-vít cư ngụ trong xứ người Phi-li-tin là một năm bốn tháng. Đa-vít và những người theo chàng thường cướp phá các dân Ghê-sua, Ghiệt-xi và A-ma-léc là những dân tộc sống trong vùng từ Tê-la-im27:8 Nt: “Ô-lam” hoặc “lâu đời.” LXX: Tê-lam trải dài đến sa mạc Su-rơ và tận biên giới Ai-cập. Mỗi khi đánh phá vùng nào, Đa-vít không để cho ai sống sót, dù đàn ông hay đàn bà. Đa-vít lấy hết chiên dê, bò lừa, lạc đà và quần áo, rồi trở về và đến gặp vua A-kích.Mỗi khi vua A-kích hỏi: “Hôm nay các ngươi cướp phá vùng nào?” Đa-vít thường đáp: “Vùng Nê-ghép xứ Giu-đa,” hoặc “vùng Nê-ghép của dân Giê-ra-mên,” hoặc “vùng Nê-ghép của dân Kê-nít”27:10 Nê-ghép là địa danh chỉ vùng đất khô hạn phía nam xứ Giu-đaĐa-vít không chừa một người đàn ông hay đàn bà nào sống sót để đem về thành Gát, vì sợ họ tố cáo những việc Đa-vít và những người theo chàng đã làm. Đa-vít cứ hành động như vậy suốt thời gian ở trong xứ người Phi-li-tin. Vua A-kích tin Đa-vít. Vua thầm nghĩ: “Nó đã tự làm cho dân Y-sơ-ra-ên của nó ghê tởm nó đến nỗi nó phải làm chư hầu cho ta suốt đời.”Vào lúc ấy, người Phi-li-tin tập họp lực lượng ra trận đánh dân Y-sơ-ra-ên. Vua A-kích bảo Đa-vít: “Nhà ngươi phải biết rõ rằng ngươi và thuộc hạ của ngươi phải theo ta ra trận.” Đa-vít tâu: “Xin tuân lệnh. Chính vua sẽ biết tôi tớ vua làm được gì.” Vua A-kích đáp: “Tốt lắm! Ta sẽ đặt ngươi làm vệ sĩ cho ta suốt đời.”Vua Sau-lơ Và Bà Đồng Bóng Ở Ên-đô-rơLúc bấy giờ, ông Sa-mu-ên đã qua đời. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đã than khóc và chôn cất ông tại quê hương ông là thành Ra-ma. Vua Sau-lơ cũng đã trục xuất những người làm nghề đồng bóng ra khỏi xứ.Quân Phi-li-tin tập họp lại và đến đóng trại gần thành Su-nem. Vua Sau-lơ tập họp toàn quân Y-sơ-ra-ên và đóng trại trên núi Ghinh-bô-a.28:4 Cách Su-nem từ 8 đến 20 cây số về phía đông namKhi vua Sau-lơ thấy trại quân Phi-li-tin, vua sợ hãi, tim vua đập mạnh. Vua Sau-lơ cầu hỏi ý CHÚA, nhưng CHÚA không đáp lời, dù qua giấc mộng, hoặc qua thẻ U-rim, hoặc qua các tiên tri. Vua Sau-lơ bảo các triều thần: “Hãy tìm cho ta một bà đồng bóng để ta đi hỏi ý bà.” Triều thần tâu: “Thưa có một bà đồng bóng ở làng Ên-đô-rơ.”28:7 Khoảng 6 cây số phía đông bắc Su-nemVua Sau-lơ cải trang, mặc quần áo khác, và ban đêm, đi cùng với hai người đến nhà người đàn bà. Vua bảo bà: “Xin bà ngồi hầu bóng và cho tôi biết việc sắp xảy ra. Xin bà gọi lên hồn của người tôi sẽ nói cho bà biết.” Người đàn bà đáp: “Nhưng ông thừa biết vua Sau-lơ đã bài trừ mọi việc lên đồng ngồi bóng trong xứ. Sao ông lại còn gài bẫy để giết tôi?” Vua Sau-lơ nhân danh CHÚA thề với bà: “Có CHÚA Hằng Sống, bà sẽ không mắc tội về việc này.” Người đàn bà hỏi: “Ông muốn tôi gọi ai lên?” Vua đáp: “Bà gọi ông Sa-mu-ên lên cho tôi.” Khi bà thấy ông Sa-mu-ên, bà rú lên một tiếng khủng khiếp, và nói với vua Sau-lơ: “Tại sao bệ hạ đánh lừa tôi? Bệ hạ chính là vua Sau-lơ đây!” Vua trấn an bà: “Bà đừng sợ. Hãy cho ta biết28:13 Dịch theo LXX bà thấy gì?” Bà tâu: “Tôi thấy một vị thần từ dưới đất đi lên.” Vua hỏi: “Hình dáng vị ấy ra sao?” Bà thưa: “Một cụ già đang đi lên, mình quấn áo choàng.” Vua Sau-lơ biết chắc ấy là ông Sa-mu-ên. Vua quì sấp mặt xuống đất mà lạy.Ông Sa-mu-ên hỏi vua Sau-lơ: “Sao vua quấy rầy tôi, gọi tôi lên làm chi?” Vua Sau-lơ đáp: “Con gặp tình thế nguy cấp quá. Quân Phi-li-tin đang giao chiến với con, và Đức Chúa Trời đã lìa bỏ con. Ngài không còn đáp lời con nữa, dù qua các tiên tri, hoặc qua giấc mộng. Vì thế con buộc lòng phải gọi ông lên để chỉ cho con biết điều gì phải làm.”Ông Sa-mu-ên nói: “Tại sao vua lại hỏi tôi trong khi CHÚA đã lìa bỏ vua và trở thành kẻ thù của vua? CHÚA thực hiện điều Ngài nói trước đây: CHÚA lấy ngôi nước khỏi tay vua và giao cho Đa-vít, người láng giềng của vua. Vua không vâng lời CHÚA, không thi hành án phạt do cơn thịnh nộ của Ngài đối với dân A-ma-léc, cho nên hôm nay CHÚA khiến việc này xảy ra cho vua. CHÚA sẽ giao vua và dân Y-sơ-ra-ên vào tay quân Phi-li-tin. Ngày mai vua và các con trai vua sẽ ở với tôi. CHÚA cũng sẽ giao trại quân Y-sơ-ra-ên vào tay quân Phi-li-tin.”Nghe ông Sa-mu-ên nói, vua Sau-lơ hoảng sợ ngã nằm dài xuống đất. Hơn nữa, vua cũng đã kiệt sức, vì không ăn gì hết suốt ngày và suốt đêm hôm ấy.Người đàn bà đến bên vua Sau-lơ; thấy vua quá sợ hãi, bà nói: “Tôi là đầy tớ của bệ hạ, tôi đã vâng lời bệ hạ, liều mạng làm theo lời bệ hạ truyền. Bây giờ, xin bệ hạ vui lòng nghe đầy tớ bệ hạ nói, để tôi dọn chút thức ăn bệ hạ dùng cho lại sức trước khi lên đường.” Vua từ chối: “Ta không ăn.” Nhưng các triều thần và ngay cả người đàn bà cứ năn nỉ mãi nên vua nghe theo họ. Vua nhổm dậy khỏi đất và ngồi lên giường.Người đàn bà có vỗ béo một con bê trong nhà. Bà vội vàng làm thịt con bê, rồi bà lấy bột nhồi và nướng bánh không men. Bà dọn lên cho vua Sau-lơ và triều thần. Ăn xong, họ đứng dậy và ra đi ngay đêm ấy.Người Phi-li-tin Không Cho Đa-vít Theo Họ Ra TrậnQuân Phi-li-tin tập họp toàn bộ lực lượng tại A-phéc,29:1 Trong đồng bằng Sa-rôn trong khi quân Y-sơ-ra-ên đóng trại bên suối nước trong thung lũng Gít-rê-ên. Các nhà lãnh đạo Phi-li-tin đi trước, dẫn đầu những đoàn quân hàng trăm hoặc hàng ngàn người; Đa-vít và những người theo chàng đi sau cùng với vua A-kích. Các quan tướng Phi-li-tin hỏi: “Bọn Hy-bá này làm gì ở đây?” Vua A-kích đáp: “Đây là Đa-vít, tôi tớ vua Sau-lơ, vua Y-sơ-ra-ên. Nó ở với tôi cả năm nay. Từ ngày nó bỏ chủ theo tôi cho đến nay, tôi không thấy nó có lỗi gì cả.”Nhưng các quan tướng Phi-li-tin nổi giận với vua A-kích mà rằng: “Vua hãy cho người ấy về nơi vua đã chỉ định cho nó ở. Nó không được ra trận với chúng ta, kẻo nó trở thành địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Thật vậy, nó có cách nào lấy lòng chủ nó tốt hơn là nộp đầu của binh sĩ ta? Vua nên nhớ tên Đa-vít này là tên mà bọn chúng hát hò khi nhảy múa:‘Sau-lơ giết hàng ngàn,Đa-vít giết hàng vạn.’ ”Vua A-kích đành phải gọi Đa-vít đến và bảo: “Có CHÚA Hằng Sống, ngươi là người ngay thẳng. Ta muốn ngươi phục vụ29:6 Nt: ra vào trong quân ngũ của ta, vì ta không thấy ngươi có điều gì sai quấy kể từ ngày ngươi đến ở với ta cho đến nay. Nhưng những người lãnh đạo không bằng lòng. Vậy ngươi hãy trở về bình an, và đừng làm gì phật lòng các nhà lãnh đạo Phi-li-tin.”Đa-vít phản đối: “Nhưng tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ vua cho đến nay, vua có thấy đầy tớ vua phạm lỗi nào mà tôi không được ra trận đánh kẻ thù của vua là chủ tôi?”Vua A-kích đáp: “Ta biết. Đối với ta, ngươi tốt như một sứ giả của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên các quan tướng Phi-li-tin đã quyết định không cho ngươi ra trận chiến đấu bên cạnh họ. Vậy, sáng mai hãy dậy sớm, ngươi và các tôi tớ đang ở với ngươi,29:10 LXX có phần này: và đi đến nơi ta đã chỉ định cho các ngươi ở. Lòng ngươi đừng cay đắng, vì ta biết ngươi tốt các ngươi hãy dậy sớm và ra đi khi trời vừa sáng.”Sáng hôm sau, Đa-vít và những người theo chàng dậy sớm và ra đi, trở về xứ người Phi-li-tin. Trong khi đó, quân Phi-li-tin tiến lên trũng Gít-rê-ên.Thành Xiếc-lác Bị Quân A-ma-léc Cướp PháKhi Đa-vít và những người theo chàng về đến thành Xiếc-lác vào ngày thứ ba, thì người A-ma-léc đã cướp phá vùng Nê-ghép và thành Xiếc-lác. Chúng hủy phá thành Xiếc-lác và phóng hỏa đốt thành. Chúng bắt đàn bà và mọi người30:2 “và mọi người” có trong LXX, nhưng không có trong MT trong thành, từ nhỏ đến lớn, làm tù binh, không giết một ai. Chúng dẫn họ đi theo và lên đường.Đa-vít và những người theo chàng về đến nơi, thấy thành cháy rụi, còn vợ và con trai, con gái họ thì bị bắt đi. Đa-vít và binh sĩ theo mình òa lên khóc cho đến khi họ không còn sức khóc nữa. Ngay cả hai bà vợ của Đa-vít, A-hi-nô-am người Gít-rê-ên, và A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh, người Cạt-mên, cũng bị bắt đi. Đa-vít lâm vào tình cảnh rất nguy kịch vì tất cả các binh sĩ đều cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái mình nên bàn chuyện ném đá chàng.Nhưng Đa-vít lấy lại can đảm nhờ CHÚA là Đức Chúa Trời mình. Đa-vít nói với thầy tế lễ A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc: “Xin thầy đem ê-phót lại đây cho tôi.” Khi thầy tế lễ A-bia-tha đem ê-phót đến, Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đuổi theo bọn cướp này không? Con có rượt kịp chúng không?” Ngài đáp: “Hãy đuổi theo chúng. Thế nào con cũng rượt kịp chúng và giải thoát các tù binh.”Đa-vít ra đi cùng với 600 người theo chàng. Đến khe Bê-sô,30:9 cách Xiếc-lác khoảng 35km về phía tây nam hậu quân dự bị dừng lại. Đa-vít cùng với 400 người tiếp tục đuổi theo bọn cướp, còn 200 người kia dừng lại vì họ đuối sức, không thể băng qua khe Bê-sô được.Binh sĩ bắt gặp một tên Ai-cập ngoài đồng, dẫn đến cho Đa-vít. Họ cho nó ăn bánh và nước uống. Họ cũng cho nó một miếng bánh trái vả khô và hai chùm nho khô. Ăn xong, nó lại sức, vì đã ba ngày ba đêm nó không ăn uống gì. Đa-vít hỏi nó: “Anh là người của ai? Quê anh ở đâu?” Nó đáp: “Tôi là người Ai-cập, làm nô lệ cho một người A-ma-léc. Chủ bỏ tôi lại đây ba ngày vì tôi ngã bệnh. Trước đó, chúng tôi cướp phá vùng Nê-ghép của người Kê-rê-thít, vùng Nê-ghép của người Giu-đa, và vùng Nê-ghép của người Ca-lép. Chúng tôi cũng phóng hỏa đốt thành Xiếc-lác.” Đa-vít hỏi: “Anh có muốn dẫn tôi xuống chỗ bọn cướp đó không?” Nó đáp: “Xin ông nhân danh Đức Chúa Trời thề với tôi rằng ông sẽ không giết tôi, cũng không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ dẫn ông xuống chỗ bọn cướp đó.”Đa-vít Đánh Bại Quân A-ma-lécNgười Ai-cập dẫn Đa-vít xuống. Kìa, quân A-ma-léc tràn lan khắp miền, chè chén, ăn mừng vì số chiến lợi phẩm lớn thu được từ xứ Phi-li-tin và Giu-đa. Đa-vít đánh giết chúng từ rạng đông đến chiều ngày hôm sau. Không một tên nào thoát, ngoại trừ 400 thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. Đa-vít giải cứu tất cả những người bị quân A-ma-léc bắt đi, kể cả hai bà vợ của mình. Họ không mất một ai, từ người nhỏ đến người lớn, từ con trai đến con gái. Đa-vít cũng thu hồi được chiến lợi phẩm và tất cả những gì bị cướp. Đa-vít bắt tất cả chiên dê và bò. Những người theo chàng lùa đàn súc vật đi trước và nói: “Đây là chiến lợi phẩm của Đa-vít.”Đa-vít về đến nơi 200 người ở lại khe Bê-sô vì họ quá mệt mỏi không theo chàng được. Họ ra đón Đa-vít và đoàn quân đi theo chàng. Đa-vít và đoàn quân đến gần chào hỏi họ. Bấy giờ, tất cả những tên côn đồ vô lại trong đám người theo Đa-vít lên tiếng: “Vì chúng nó không có đi với chúng ta nên chúng ta không chia chiến lợi phẩm thu được cho chúng nó. Chúng chỉ được phép dẫn vợ con đi thôi.” Nhưng Đa-vít cản họ: “Anh em không nên làm như vậy. Hãy xem những gì CHÚA ban cho chúng ta, thể nào Ngài gìn giữ chúng ta bình an vô sự, lại còn nộp bọn cướp vào tay chúng ta. Không ai có thể nghe lời anh em đề nghị! Phần của người đi đánh giặc cũng như phần của người ở lại giữ đồ đạc đều bằng nhau. Họ sẽ chia đồng đều.” Kể từ hôm ấy, Đa-vít lập quyết định này thành luật trong dân Y-sơ-ra-ên, vẫn còn áp dụng đến ngày nay.Về đến Xiếc-lác, Đa-vít gởi một phần chiến lợi phẩm cho bạn bè mình là các trưởng lão Giu-đa, kèm theo sứ điệp: “Xin gởi đến anh em món quà này trong số chiến lợi phẩm lấy được từ tay kẻ thù của CHÚA.” Đa-vít cũng gởi quà cho các trưởng lão ở Bê-tên, Ra-mốt Nê-ghép, và Giạt-thia, các trưởng lão ở A-rô-e, Síp-mốt, và Et-tơ-mô-a, các trưởng lão ở Ra-canh, ở trong các thành của người Giê-ra-mên, và các thành của người Kê-nít, các trưởng lão ở Họt-ma, Bọt-a-san, A-thạch, các trưởng lão ở Hếp-rôn, và ở tất cả mọi nơi Đa-vít và những người theo chàng thường qua lại.Sự Chết Của Vua Sau-lơ Và Các Con Trai VuaQuân Phi-li-tin giao chiến với quân Y-sơ-ra-ên. Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy, bỏ lại những người chết trên núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin bám sát vua Sau-lơ và các con vua. Chúng giết được Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua là các con vua Sau-lơ. Thế trận áp đảo vua Sau-lơ dữ dội. Mấy tên bắn cung bắn trúng vua, vua bị trọng thương.Vua Sau-lơ bảo người vác binh khí cho mình: “Hãy rút gươm ngươi ra đâm cho ta chết đi, kẻo bọn không cắt bì kia đến đâm ta chết và sỉ nhục ta.” Nhưng người vác binh khí từ chối vì quá sợ. Vua Sau-lơ liền rút gươm ra, lao mình vào mũi gươm. Người vác binh khí thấy vua Sau-lơ chết rồi, cũng lao mình vào mũi gươm của mình, cùng chết với vua. Thế là vua Sau-lơ, ba người con của vua, người vác binh khí của vua, và tất cả những người của vua đều chết ngày hôm ấy. Khi dân Y-sơ-ra-ên bên kia thung lũng và bên kia sông Giô-đanh thấy quân Y-sơ-ra-ên trốn chạy và vua Sau-lơ và các con vua đều chết, họ cũng bỏ các thành mình trốn đi. Quân Phi-li-tin đến chiếm cứ các thành đó.Ngày hôm sau, quân Phi-li-tin đến lục soát các tử thi, thấy vua Sau-lơ và ba con vua đều ngã chết trên đỉnh núi Ghinh-bô-a. Chúng cắt đầu vua và tước lột khí giới vua, gởi đi khắp xứ Phi-li-tin, loan báo tin mừng trong các miếu thờ thần tượng của họ và trong dân chúng. Chúng đặt khí giới vua trong miếu thờ Ách-ta-rốt, còn xác vua chúng treo trên tường thành Bết-san.Khi dân thành Gia-bết ở Ga-la-át hay được cách quân Phi-li-tin đối xử với vua Sau-lơ, tất cả các dũng sĩ trong thành ra đi suốt đêm, gỡ xác vua Sau-lơ và các con vua khỏi tường thành Bết-san, đem về Gia-bết hỏa táng. Họ lấy cốt chôn dưới gốc cây thánh liễu tại Gia-bết và kiêng ăn bảy ngày.