- New Vietnamese Bible 2014 2 Sử Ký 2 SỬ KÝ 2 Sử Ký 2Sử 2 SỬ KÝ Giới Thiệu Sách 2 Sử Ký tiếp nối sách 1 Sử Ký, nói về cuộc trị vì của vua Sa-lô-môn, cuộc nổi loạn của các bộ tộc miền bắc để thành lập nước Y-sơ-ra-ên dưới sự lãnh đạo của Giê-rô-bô-am chống lại vua Rô-bô-am, con vua Sa-lô-môn và những vị vua kế tiếp của Giu-đa. Sách cũng ghi chép lịch sử nước Giu-đa ở miền nam cho đến khi thủ đô Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ vào năm 586 trước Công Nguyên. Bố Cục 1. Cuộc trị vì của vua Sa-lô-môn 1:1–9:31 2. Cuộc nổi loạn của các bộ tộc miền bắc 10:1-19 3. Các triều đại của các vua Giu-đa 11:1–36:12 4. Giê-ru-sa-lem sụp đổ 36:13-23 Triều Đại Sa-lô-môn Vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, nắm quyền vững vàng trên vương quốc mình. CHÚA, Đức Chúa Trời của vua ở cùng vua và làm cho vua trở nên rất vĩ đại. Vua Sa-lô-môn nói chuyện với toàn thể Y-sơ-ra-ên, những người chỉ huy ngàn quân, những người chỉ huy trăm quân, các thẩm phán, cùng toàn thể những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, các trưởng tộc. Sau đó vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng đi đến nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, vì Trại Hội Kiến mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã làm trong sa mạc, đang ở tại đó. Bấy giờ vua Đa-vít đã đem rương của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến nơi vua đã chuẩn bị vì vua đã dựng một cái trại cho rương tại Giê-ru-sa-lem. Còn bàn thờ bằng đồng mà Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ đã làm thì ở trước đền tạm của CHÚA nên vua Sa-lô-môn và hội chúng tìm ra nó.1:5 Ctd: Thỉnh ý Chúa tại đó Vua Sa-lô-môn tiến lên bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA, trong Trại Hội Kiến và dâng một ngàn tế lễ thiêu trên bàn thờ ấy. Tối hôm ấy Đức Chúa Trời hiện ra cùng vua Sa-lô-môn; Ngài phán cùng người: “Hãy xin điều ngươi muốn ta ban cho ngươi.” Vua Sa-lô-môn thưa cùng Đức Chúa Trời: “Ngài đã đối xử với vua Đa-vít, cha con, hết sức yêu thương nhân từ và Ngài cũng lập con làm vua kế vị người. Giờ đây, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, xin lời hứa của Ngài cùng vua Đa-vít, cha con, được thành tựu vì Ngài đã lập con làm vua trên một dân tộc đông đúc như bụi đất. Nay xin Chúa ban cho con khôn ngoan và hiểu biết để con lãnh đạo1:10 Nt: Đi ra, đi vào trước mặt dân này dân này vì ai có thể cai trị dân tộc lớn lao này của Chúa.” Đức Chúa Trời phán cùng Sa-lô-môn: “Vì ngươi có lòng như vậy, không xin của cải, giàu có, danh vọng, mạng sống những kẻ thù và cả tuổi thọ cho mình, nhưng xin khôn ngoan và hiểu biết để cai trị dân ta, dân mà ta đã lập ngươi làm vua trên họ, nên khôn ngoan và hiểu biết sẽ được ban cho ngươi. Ta cũng sẽ ban cho ngươi của cải, giàu có, danh vọng đến nỗi không một vua nào trước hay sau ngươi được như vậy.” Bấy giờ vua Sa-lô-môn từ nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, trước Trại Hội Kiến, trở về Giê-ru-sa-lem; người cai trị Y-sơ-ra-ên. Vua Sa-lô-môn tập trung xe chiến mã và ngựa; người có 1,400 xe và 12,000 ngựa, để trong các thành chứa xe và ở gần vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm cho vàng bạc tại Giê-ru-sa-lem trở nên tầm thường như đá sỏi và cây bá hương nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập cảng từ Ai Cập và Cơ-ve;1:16 Miền Cilicia, nam Thổ Nhĩ Kỳ các thương gia của vua đã mua ngựa từ Cơ-ve theo giá thị trường. Họ nhập cảng xe ngựa từ Ai Cập với giá sáu trăm sê-ken1:17 Khoảng 7kg bạc một chiếc và ngựa một trăm năm mươi sê-ken1:17 Khoảng 1.7kg một con. Các xe và ngựa lại do họ xuất cảng cho các vua Hê-tít và vua Sy-ri. Chuẩn Bị Xây Đền Thờ Vua Sa-lô-môn ra lệnh xây một đền thờ cho danh CHÚA và hoàng cung cho mình. Vua Sa-lô-môn động viên 70,000 người khuân vác, 80,000 người thợ đẽo đá trên núi và 3,600 người đốc công. Vua Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram ở Ty-rơ: “Ngài đã gởi gỗ bá hương để xây hoàng cung cho vua Đa-vít; ngài đã làm cho vua Đa-vít, cha tôi thể nào, xin ngài cũng làm cho tôi như thế. Giờ đây tôi sắp xây đền thờ cho danh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, một ngôi đền riêng cho Ngài để đốt hương thơm trước mặt Ngài; để thường xuyên dâng bánh thánh, sớm chiều dâng tế lễ thiêu hoặc trong ngày Sa-bát, ngày trăng mới, các ngày lễ của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi theo điều qui định cho Y-sơ-ra-ên muôn đời. Ngôi đền mà chính tôi sắp xây sẽ rất vĩ đại vì Đức Chúa Trời của chúng tôi vĩ đại hơn hết các thần. Nhưng ai là người có khả năng xây đền cho Chúa? Vì các tầng trời, trời của các tầng trời cũng không thể chứa được Ngài. Thế thì tôi là ai mà xây đền cho Chúa? Cất đền chẳng qua là để đốt hương trước mặt Ngài. Vậy, bây giờ xin ngài gởi cho tôi những người thợ lành nghề về vàng, bạc, đồng, sắt, vải tím, vải đỏ thẳm, vải xanh cùng những người thợ chạm khắc để làm việc với những người thợ giỏi của tôi tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mà cha tôi, vua Đa-vít đã cung cấp. Xin ngài gởi cho tôi gỗ bá hương, gỗ thông, gỗ đàn hương từ Li-ban vì tôi biết rằng các tôi tớ ngài thạo đốn gỗ ở Li-ban. Các tôi tớ của tôi cũng sẽ làm việc với tôi tớ ngài, để đốn nhiều gỗ vì ngôi đền tôi xây sẽ vĩ đại và nguy nga. Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ ngài, những thợ đốn gỗ hai mươi ngàn cô-rơ2:10 Một cô-rơ chứa 220l lúa mì, hai mươi ngàn cô-rơ lúa mạch, hai mươi ngàn bát2:10 Một bát chứa 22l rượu và hai mươi ngàn bát dầu ô-liu.” Hi-ram, vua Ty-rơ gởi thơ phúc đáp cho vua Sa-lô-môn: “Vì CHÚA yêu thương dân mình nên đã lập ngài lên làm vua của họ.” Người cũng thêm: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng tạo nên trời đất; Ngài đã ban cho vua Đa-vít một người con khôn ngoan hiểu biết, thông minh sáng suốt; người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và hoàng cung cho mình. Nay tôi sai một người thợ thành thạo sáng suốt tên Hu-ram A-bi, mẹ người thuộc bộ tộc Đan, cha là người Ty-rơ. Người là thợ thành thạo về đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, gỗ, vải tím, vải xanh, vải gai mịn, vải đỏ. Người cũng biết chạm trổ và sáng chế bất cứ sản phẩm nào người ta đưa kiểu. Người sẽ làm việc với các thợ của ngài cũng như các thợ của chúa tôi, vua Đa-vít, cha ngài. Vậy, những lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu chúa tôi đã hứa, xin ngài gởi cho các tôi tớ ngài. Chúng tôi sẽ đốn tất cả số gỗ ngài cần từ Li-ban và đóng bè theo đường biển chở xuống Gia-phô, rồi ngài sẽ đem lên Giê-ru-sa-lem.” Vua Sa-lô-môn kiểm kê tất cả những người ngoại quốc sống trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên theo như thống kê vua Đa-vít, cha người đã làm; người ta thấy có 153,600 người. Trong số đó, vua đặt 70,000 người là phu khuân vác, 80,000 người làm thợ đẽo đá trên núi và 3,600 người làm đốc công để đốc thúc người ta làm việc. Công Việc Xây Cất Đền Thờ Vua Sa-lô-môn bắt đầu xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi CHÚA đã hiện ra với vua cha Đa-vít; người đã chỉ định nơi này, tức là sân đạp lúa của Ọt-nan người Giê-bu-sít. Vua khởi công xây cất vào ngày hai tháng hai năm thứ tư dưới thời trị vì của mình. Đây là nền vua Sa-lô-môn xây cho đền thờ Đức Chúa Trời, theo thước đo cũ, chiều dài sáu mươi am-ma,3:3 Khoảng 27m chiều rộng hai mươi am-ma.3:3 Khoảng 9m Tiền đường ở phía trước, dài hai mươi am-ma, bằng chiều rộng của đền thờ, cao hai mươi am-ma3:4 Khoảng 9m phía trong dát vàng ròng. Đại sảnh đường được lót bằng gỗ bá hương, dát vàng tốt và có chạm hình cây chà là và vòng xích. Vua cũng trang hoàng đền thờ bằng đá quí và vàng dùng là vàng Phạt-va-im. Vua dát vàng khắp đền thờ, xà ngang, khung cửa, tường, cửa và chạm hình chê-ru-bim trên tường. Vua xây Nơi Chí Thánh, chiều dài bằng chiều rộng của đền thờ, hai mươi am-ma vuông vức mỗi chiều; vua dùng đến sáu trăm ta-lâng3:8 Khoảng 21 tấn vàng tốt để dát phòng. Các đinh bằng vàng nặng năm mươi sê-ken;3:9 Khoảng 0.5kg vua cũng dát vàng các phòng lầu. Trong Nơi Chí Thánh vua làm hai chê-ru-bim, là hai vật điêu khắc bọc vàng. Các cánh của chê-ru-bim dài tổng cộng hai mươi am-ma, mỗi cánh dài năm am-ma. Một cánh của chê-ru-bim chạm một tường của đền thờ, còn cánh kia, dài năm am-ma, đụng cánh của chê-ru-bim kia. Một cánh của chê-ru-bim này dài năm am-ma, chạm tường kia của đền thờ, còn cánh kia, cũng dài năm am-ma, đụng cánh của chê-ru-bim kia. Các cánh của hai chê-ru-bim này xòe ra dài hai mươi am-ma; chúng đứng trên chân mình, mặt hướng về sảnh đường. Vua cũng làm các màn bằng vải xanh, tím, đỏ thẫm, vải gai mịn và thêu hình chê-ru-bim lên trên. Trước đền thờ vua xây hai trụ cao ba mươi lăm am-ma;3:15 Khoảng 16m trên đỉnh mỗi trụ có một đầu trụ cao năm am-ma.3:15 Khoảng 2.25m Vua làm các vòng xích dây chuyền,3:16 Ctd: vòng xích trong nội điện treo trên đầu các trụ; người làm một trăm trái lựu, gắn vào các vòng xích ấy. Vua dựng các trụ trước đền thờ, một bên phải và một bên trái; trụ bên phải người gọi là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-ách. Những Dụng Cụ Trong Đền Thờ Vua làm bàn thờ bằng đồng chiều dài hai mươi am-ma, chiều ngang hai mươi am-ma và cao mười am-ma.4:1 9m x 9m x 4.5m Vua đúc một cái bể kim loại hình tròn, rộng mười am-ma từ vành này sang vành kia, cao năm am-ma và chu vi ba mươi lăm am-ma.4:2 Khoảng 9m, 4.5m và 13.5m Phía dưới vành khắp chung quanh bể có hình con bò, cứ nửa mét là mười con; các hình con bò được đúc chung quanh trên bể thành hai hàng. Bể được đặt trên mười hai con bò, ba con hướng mặt về phía Bắc, ba con hướng mặt về hướng Tây, ba con hướng mặt về hướng Nam, ba con hướng mặt về hướng Đông; bể đặt trên chúng và phần mông hướng vào trong. Bề dày của bể là một gang; mép bể như vành chén hình hoa huệ nở; bể chứa được ba ngàn bát.4:5 Khoảng 66,000l Người cũng làm mười cái chậu, năm cái bên phải, năm cái bên trái để rửa những vật tế lễ thiêu. Còn cái bể để thầy tế lễ thanh tẩy. Người làm mười chân đèn bằng vàng theo kiểu đã định và đặt chúng trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. Vua làm mười cái bàn đặt trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. Người cũng làm một trăm bình rảy bằng vàng. Người xây sân cho thầy tế lễ và sân lớn; các cửa trong sân lớn người đều bọc đồng. Vua đặt cái bể ở bên phải, về phía đông nam. Hu-ram làm các bình, xẻng và bình rảy. Hu-ram hoàn tất những công việc cho vua Sa-lô-môn trong đền thờ Đức Chúa Trời: Hai cây trụ, các bầu của các đầu trụ trên đỉnh của hai cây trụ, các lưới bao quanh bầu trên đỉnh trụ; bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới; mỗi tấm lưới có hai hàng lựu trang trí cho hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh. Người cũng làm các chân và để các chậu trên chân; cái bể để trên mười hai con bò; các bình, xẻng và xiên cùng mọi vật dụng liên hệ. Hu-ram A-bi đã làm tất cả những vật dụng này bằng đồng đánh bóng cho vua Sa-lô-môn để dùng trong đền thờ của CHÚA. Vua đúc những vật dụng này trong những khuôn bằng đất tại đồng bằng sông Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xê-rê-đa. Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng này rất nhiều đến nỗi số lượng đồng không thể tính được. Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng trong đền Đức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng; các bàn để bày bánh; các chân đèn và đèn bằng vàng ròng để thắp trước nội điện theo qui định; các hoa, đèn và que kẹp toàn bằng vàng; dao cắt tim đèn, bình rảy, cái vá, bình hương đều bằng vàng ròng. Về cửa đền thờ, các cửa bên trong Nơi Chí Thánh, các cửa trong nội điện đều bằng vàng. Đem Rương Giao Ước Vào Đền Thờ Khi mọi công trình vua Sa-lô-môn làm cho đền thờ CHÚA đã hoàn tất, vua cũng đem những vật vua cha Đa-vít dâng hiến: bạc, vàng và tất cả vật dụng khác, vào trong kho của đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các lãnh đạo bộ tộc, các trưởng tộc trong dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. Mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đều tập họp lại cùng vua để dự lễ, lúc ấy vào tháng bảy. Khi tất cả trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến, những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước đi. Những thầy tế lễ người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước, Trại Hội Kiến và tất cả những vật dụng thánh trong trại. Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên tập họp bên cạnh vua trước Rương Giao Ước; họ dâng sinh tế chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được. Các thầy tế lễ đem Rương Giao Ước của CHÚA vào nơi dành sẵn cho rương trong nội điện của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, phía dưới cánh các chê-ru-bim. Các chê-ru-bim xòe cánh trên chỗ để rương, che cả rương lẫn các đòn khiêng. Các đòn khiêng rất dài nên từ phía trước nội điện có thể thấy các đầu đòn nhưng ở bên ngoài không thấy được; chúng vẫn còn đó cho đến ngày nay. Không có gì trong rương ngoại trừ hai bảng đá Kinh Luật Môi-se đã đặt vào đó tại Hô-rếp khi CHÚA lập giao ước với người Y-sơ-ra-ên lúc họ ra khỏi Ai cập. Bấy giờ các thầy tế lễ lui ra khỏi Nơi Thánh vì tất cả các thầy tế lễ, bất luận thuộc ngành nào, đều đã phải thanh tẩy. Tất cả những ca nhạc sĩ người Lê-vi, tức là A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, và các con trai, họ hàng của họ, mặc áo vải gai mịn, cầm chập chỏa, đàn lia, đàn hạc, đứng ở phía đông bàn thờ cùng với 120 thầy tế lễ thổi kèn. Những người thổi kèn và ca sĩ cùng hòa ca một điệu; họ ca ngợi và cảm tạ CHÚA. Họ cất tiếng hát hòa với tiếng kèn, tiếng chập chỏa và những nhạc cụ khác cùng ca ngợi CHÚA rằng: “Ngài là thiện, Tình yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.” Bấy giờ đền thờ của CHÚA đầy mây, đến nỗi các thầy tế lễ không thể đứng hành lễ vì mây tỏa, vì vinh quang của CHÚA tỏa đầy đền thờ Đức Chúa Trời. Lễ Dâng Hiến Đền Thờ Vua Sa-lô-môn nói: CHÚA đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Còn chính con, con đã xây một ngôi đền nguy nga cho Chúa, một nơi để Ngài ngự đời đời. Bấy giờ vua xoay mặt lại chúc phước cho dân chúng trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. Vua nói: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã lấy tay hoàn thành điều miệng Ngài đã hứa với vua cha, rằng: ‘Từ khi Ta đem dân ta ra khỏi Ai Cập, Ta chưa hề chọn một thành nào trong vòng các thành của các bộ tộc để xây đền cho danh Ta ngự tại đó; Ta cũng chưa chọn một người nào để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó và Ta đã chọn Đa-vít để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ ” Vua cha Đa-vít đã định trong lòng sẽ xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng CHÚA phán với vua cha Đa-vít rằng: “Ngươi có lòng định xây một đền thờ cho danh Ta là điều tốt; tuy nhiên, ngươi không phải là người xây đền thờ, nhưng con trai từ lòng ngươi, chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta.” CHÚA đã giữ lời hứa của Ngài, cho tôi lên ngôi kế vị vua cha Đa-vít, trị vì Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã hứa, và tôi đã xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại nơi đó tôi đã đặt rương, là rương chứa giao ước mà CHÚA đã lập với dân Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ vua đang đứng trước bàn thờ CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên; vua giơ tay lên. Vua Sa-lô-môn đã làm một bục đồng vuông vức mỗi cạnh năm am-ma, cao ba am-ma,6:13 Khoảng 2.25m, 1.3m đặt giữa sân; vua đứng trên đó, rồi quì xuống trước toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên và giơ tay lên trời. Vua nói: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào giống như Chúa ở trên trời hay dưới đất, Ngài gìn giữ giao ước và lòng yêu thương nhân từ đối với các tôi tớ Ngài khi họ hết lòng bước đi trước mặt Ngài. Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ Ngài, vua cha Đa-vít. Thật vậy, chính miệng Ngài đã hứa và ngày nay chính tay Ngài đã hoàn thành điều ấy. Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài giữ lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua cha Đa-vít rằng: Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu người ngồi trên ngai trị vì Y-sơ-ra-ên nếu con cháu ngươi cẩn thận trong đường lối mình, đi theo Kinh Luật Ta như ngươi đã đi trước mặt Ta. Vậy, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua Đa-vít được ứng nghiệm. Nhưng, Đức Chúa Trời có thật sự cư ngụ với phàm nhân ở dưới đất chăng? Kìa, trời của các tầng trời còn chưa chứa nổi Ngài huống chi đền thờ này mà con đã xây. Dẫu sao, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Chúa, xin lắng nghe lời kêu xin và cầu nguyện mà tôi tớ Ngài cầu trước mặt Ngài. Xin mắt Chúa ngày đêm đoái đến đền thờ này, là nơi Chúa hứa sẽ để danh Ngài tại đó. Xin lắng nghe lời cầu nguyện tôi tớ Chúa hướng về nơi này mà cầu. Xin Chúa lắng nghe lời nài xin của tôi tớ Chúa và của con dân Y-sơ-ra-ên khi họ hướng về nơi này cầu nguyện; từ trên trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe, nhậm lời và tha thứ. Nếu có ai phạm tội cùng người khác và buộc phải thề; người ấy đến thề trước bàn thờ Chúa trong đền thờ này. Xin Chúa từ trên trời lắng nghe và hành động; xin xét xử các tôi tớ Chúa; hãy báo trả kẻ phạm tội, đổ lại trên đầu hắn đường lối hắn đã làm; minh oan cho người vô tội, thưởng cho người tùy theo sự công chính người làm. Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Chúa bị kẻ thù đánh bại vì họ phạm tội cùng Ngài, nhưng họ ăn năn, tuyên xưng danh Chúa mà cầu nguyện, nài xin Ngài tại đền thờ này, thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và đem họ về đất mà Chúa đã ban cho họ cũng như tổ tiên họ. Khi trời đóng lại, không có mưa vì dân chúng phạm tội cùng Ngài nhưng rồi họ hướng về đền này cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, ăn năn tội lỗi của mình vì Ngài đã phạt họ cực khổ, thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Thật vậy, Chúa đã dạy họ con đường tốt lành họ phải theo và ban mưa tưới đất mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm cơ nghiệp. Khi trong xứ có nạn đói kém, dịch lệ, khi mùa màng hư hoại, nấm mốc ăn hại, cào cào, châu chấu hoặc khi quân thù vây hãm một trong những nơi định cư trong xứ hay có tai họa hay bệnh tật gì xảy ra; nếu có người nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa vì ý thức được sự hoạn nạn, đau đớn của mình mà giơ tay hướng về đền thờ này cầu nguyện và nài xin. Xin Chúa từ trên trời, là nơi Ngài ngự, lắng nghe, tha thứ và báo đền cho mỗi người tùy theo đường lối của họ vì Chúa biết tấm lòng họ; thật vậy, chỉ có Chúa biết lòng dạ loài người; như thế họ sẽ kính sợ Ngài, đi theo đường lối Ngài suốt đời khi họ sống trên mặt đất mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con. Còn đối với người ngoại quốc, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, người đến từ phương xa vì danh lớn của Ngài, vì cánh tay quyền năng và giang ra của Ngài; nếu họ đến, hướng về đền thờ này cầu nguyện; thì xin Chúa từ trên trời, từ nơi Ngài ngự, lắng nghe, thực hiện mọi lời người ngoại kiều ấy cầu nguyện để mọi dân tộc trên đất biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên và để họ cũng biết rằng đền thờ con xây đây mang danh Chúa. Khi dân Ngài đi ra chiến đấu cùng quân thù, bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, nếu họ hướng về thành Ngài đã chọn này và về đền thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, thì xin Ngài từ trên trời lắng nghe lời cầu nguyện, nài xin của họ và phù hộ chính nghĩa họ. Nếu họ phạm tội cùng Chúa, vì không ai mà không phạm tội, và Ngài nổi giận cùng chúng nó, phó chúng nó cho quân thù bắt đi lưu đày ở một xứ xa hay gần. Tại xứ lưu đày ấy lòng họ hối cải; từ đất bị lưu đày họ ăn năn và nài xin Ngài rằng: Chúng con đã phạm tội, làm điều sai quấy và gian ác. Nếu từ xứ, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết linh hồn quay trở lại cùng Chúa, cầu nguyện hướng về đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên, về thành Ngài đã chọn và về đền thờ mà con xây cho danh Ngài, thì xin Chúa từ trên trời, nơi Ngài ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, xét duyên cớ và tha thứ cho dân Chúa, là dân đã phạm tội cùng Ngài. Lạy Đức Chúa Trời của con, nay xin Ngài đoái xem và lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi đây. Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, Xin Ngài và rương quyền năng của Ngài ngự vào nơi nghỉ ngơi của Ngài. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, nguyện các thầy tế lễ của Chúa được mặc lấy sự cứu rỗi; Nguyện các người trung tín của Chúa vui mừng trong ơn lành. Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, xin chớ từ bỏ đấng được xức dầu của Chúa; Xin ghi nhớ lòng yêu thương nhân từ của Chúa đối với vua Đa-vít, tôi tớ Ngài.” Các Tế Lễ Dâng Hiến Khi vua Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt tế lễ thiêu, các sinh tế và vinh quang của CHÚA tràn ngập đền thờ. Các thầy tế lễ không thể vào đền thờ CHÚA vì vinh quang CHÚA tràn ngập đền thờ CHÚA. Khi tất cả dân Y-sơ-ra-ên thấy lửa giáng xuống và vinh quang CHÚA trên đền thờ; họ quì xuống trên nền đền thờ, sấp mặt xuống đất thờ phượng và cảm tạ CHÚA, rằng: Thật vậy, Ngài là thiện, Lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời. Bấy giờ vua và dân chúng dâng sinh tế cho CHÚA. Vua Sa-lô-môn dâng 22,000 bò và 120,000 chiên. Như thế, vua và toàn dân làm lễ cung hiến đền thờ Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ đứng tại chỗ của mình, những người Lê-vi cầm nhạc khí dùng cho CHÚA mà vua Đa-vít đã chế tạo để cảm tạ CHÚA, và dùng để ca ngợi Ngài, thật vậy, “lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.” Đối diện với những người Lê-vi là các thầy tế lễ đứng thổi kèn; còn toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đều đứng. Vua Sa-lô-môn thánh hiến sân giữa phía trước đền thờ CHÚA; chính tại đây vua dâng các tế lễ thiêu, các phần mỡ của tế lễ cầu an vì bàn thờ bằng đồng mà vua đã làm không đủ chỗ chứa các tế lễ thiêu, tế lễ ngũ cốc và các phần mỡ. Lúc ấy, vua Sa-lô-môn và toàn thể Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất đông đảo từ Lê-bô Ha-mát đến suối Ai Cập, cùng với vua dự lễ trong bảy ngày. Vào ngày thứ tám có cuộc hội họp long trọng vì họ đã làm lễ dâng hiến bàn thờ trong bảy ngày và dự lễ bảy ngày. Vào ngày hai mươi ba tháng thứ bảy, vua cho dân chúng trở về nhà, ai nấy lòng đầy vui mừng hân hoan vì CHÚA đã ban điều tốt lành cho Đa-vít, cho Sa-lô-môn và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Vua Sa-lô-môn hoàn thành đền thờ CHÚA và cung vua; tất cả những công trình vua định làm cho đền thờ CHÚA và cho cung vua, người đều thực hiện cả. Bấy giờ CHÚA hiện ra cùng vua Sa-lô-môn vào ban đêm; Ngài phán: “Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi và Ta chọn nơi này làm đền tế lễ cho Ta. Khi Ta đóng cửa trời không cho mưa xuống, khi Ta truyền châu chấu xâm chiếm đất đai, khi Ta sai dịch lệ đến giữa dân Ta; lúc ấy nếu dân Ta, dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và ăn năn từ bỏ con đường gian ác thì Ta từ trên trời sẽ nghe, tha thứ tội lỗi chúng và chữa lành đất đai của chúng. Giờ đây, mắt Ta sẽ mở, tai Ta sẽ lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi này. Nay Ta chọn và thánh hóa đền này cho danh Ta ngự đời đời; mắt và lòng Ta cũng sẽ ở đó mãi mãi. Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như vua cha Đa-vít đã đi, làm tất cả những điều ta truyền, giữ những luật lệ, đạo luật của Ta; thì Ta sẽ vững lập ngôi vua của ngươi như Ta đã giao ước với vua Đa-vít, cha ngươi rằng: người sẽ không thiếu người trị vì Y-sơ-ra-ên. Nhưng nếu ngươi quay đi, từ bỏ điều răn, đạo luật mà Ta đã ban cho ngươi, đi phục vụ, thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ bứng các ngươi ra khỏi đất Ta đã ban cho các ngươi; Ta sẽ từ bỏ đền thờ này khỏi trước mặt ta, là đền Ta đã thánh hóa cho danh Ta; Ta sẽ biến nó thành câu tục ngữ, lời đàm tiếu giữa các dân. Còn đền thờ này dù nay cao trọng đến đâu thì bấy giờ những người qua lại sẽ ngạc nhiên và hỏi: Tại sao CHÚA làm cho đất nước này và đền thờ này như thế? Người ta sẽ trả lời ‘Vì chúng nó từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng, Đấng đã giải cứu chúng ra khỏi đất Ai Cập mà đi theo các thần khác, thờ lạy và phục vụ các thần ấy nên Ngài giáng tất cả những tai họa này trên chúng nó.’ ” Vua Sa-lô-môn Xây Cất Các Thành Vào cuối năm thứ hai mươi, vua Sa-lô-môn xây cất xong đền thờ CHÚA và cung điện của mình. Bấy giờ vua Sa-lô-môn cũng tái thiết các thành mà vua Hu-ram nhường cho người8:2 Xem 1Vua 9:10-28 và cho dân Y-sơ-ra-ên định cư tại đó. Vua Sa-lô-môn tiến đánh Ha-mát Xô-ba và chiếm đoạt thành này. Vua xây thành Tát-mốt trong sa mạc và tất cả các thành dùng làm kho dự trữ tại Ha-mát. Người xây Bết Hô-rôn Thượng và Bết Hô-rôn Hạ thành những thành kiên cố với tường, cổng và then cài. Vua Sa-lô-môn cũng xây thành Ba-lát và tất cả những thành dùng làm kho dự trữ, thành chứa xe ngựa, kỵ binh cùng tất cả những gì vua muốn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, Li-ban và trên khắp lãnh thổ người cai trị. Tất cả những người sống sót thuộc các sắc tộc Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, là những người không thuộc dòng giống Y-sơ-ra-ên; dòng dõi những người này còn lại trong lãnh thổ mà người Y-sơ-ra-ên chưa tiêu diệt hết được, thì vua Sa-lô-môn bắt chúng làm lao động cưỡng bách cho đến ngày nay. Nhưng vua Sa-lô-môn không bắt ai trong vòng người Y-sơ-ra-ên làm nô lệ cho vua vì họ là những binh sĩ, tướng lãnh, đội trưởng, chỉ huy các xe chiến mã và kỵ binh của vua. Vua Sa-lô-môn cũng có hai trăm năm chục viên chức quản đốc những người làm việc. Vua Sa-lô-môn đưa công chúa của Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít lên cung điện mà người cất cho nàng vì vua nói rằng: Vợ ta sẽ không sống trong cung Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên vì nơi nào rương của CHÚA đến, đó là Nơi Thánh. Bấy giờ, trên bàn thờ CHÚA vua đã xây trước hiên cửa, vua dâng tế lễ thiêu cho CHÚA; vua dâng tế lễ theo như Môi-se đã qui định mỗi ngày, những ngày Sa-bát và trăng mới cũng như ba ngày lễ hằng năm: Lễ Bánh Không Men, Lễ Các Tuần và Lễ Lều Tạm. Theo sắc lệnh của vua cha Đa-vít, vua lập các ban tế lễ theo phận sự; các ban người Lê-vi hướng dẫn ca ngợi và phụ giúp các thầy tế lễ trong việc phụng vụ hằng ngày; các ban giữ cổng cho mỗi cổng vì đây là lệnh của vua Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. Lệnh của vua cho thầy tế lễ, người Lê-vi về mọi vấn đề, kể cả vấn đề nhà kho đều được thi hành chu đáo. Mọi công việc của vua Sa-lô-môn đều được thực hiện, từ ngày đặt nền đền thờ CHÚA cho đến khi kết thúc; đền thờ CHÚA được hoàn thành. Bấy giờ vua Sa-lô-môn đi đến Ê-xi-ôn Ghê-be và Ê-lốt trên bờ biển trong xứ Ê-đôm. Vua Hu-ram sai viên chức mình đem tàu và thủy thủ thành thạo hàng hải đến cùng các viên chức của vua Sa-lô-môn để đi Ô-phia; từ đó họ đem về bốn trăm năm mươi ta-lâng8:18 Khoảng 16 tấn vàng cho vua Sa-lô-môn. Nữ Vương Sê-ba Viếng Thăm Vua Sa-lô-môn Khi nữ vương xứ Sê-ba nghe về danh tiếng vua Sa-lô-môn, bà đến Giê-ru-sa-lem với những câu đố khó để thử vua. Bà đem theo đoàn lạc đà rất lớn, chở hương liệu, rất nhiều vàng và đá quí. Bà đến gặp vua Sa-lô-môn và thảo luận về mọi vấn đề bà suy nghĩ trong trí. Vua Sa-lô-môn giải đáp mọi vấn đề bà đưa ra; không có vấn đề nào quá khó cho vua mà vua không giải đáp cho bà. Khi nữ vương xứ Sê-ba thấy sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, cung điện vua xây, thức ăn trên bàn vua, triều đình, cách các quan chầu vua và y phục họ, các quan dâng rượu và y phục của họ, các tế lễ thiêu9:4 Nt: đi lên. Dịch theo văn bản cổ Hy Lạp và Syr và 1Vua 10:5 vua dâng tại đền thờ CHÚA thì bà hết hồn. Nữ vương nói với vua: Những điều tôi nghe ở trong nước tôi về các công trình và sự khôn ngoan của vua đều đúng. Lúc ấy tôi chưa tin những điều tôi nghe cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt; thật, những điều người ta mô tả cho tôi chưa bằng một nửa sự khôn ngoan vua có; vua vượt xa tiếng tăm tôi đã nghe. Phước thay cho các quan viên của vua, phước thay cho những tôi tớ này, là những người hằng đứng chầu trước mặt vua và nghe những lời khôn ngoan của vua. Đáng ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của vua, Ngài đã hài lòng về vua nên lập vua lên ngôi làm vua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của vua. Vì Đức Chúa Trời của vua yêu mến Y-sơ-ra-ên, muốn bảo toàn nó đến đời đời nên Ngài lập vua lên cai trị họ để thi hành công lý và sự công chính. Bấy giờ nữ vương tặng vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng,9:9 Khoảng 4 tấn một số lượng rất lớn hương liệu và đá quí; chưa từng có thứ hương liệu nào giống như thứ hương liệu nữ vương Sê-ba tặng vua Sa-lô-môn. Ngoài ra các tôi tớ vua Hu-ram và vua Sa-lô-môn khi đem vàng từ Ô-phia về cũng đem gỗ đàn hương và đá quí về. Vua lấy gỗ đàn hương làm bậc thang cho đền thờ CHÚA, cung điện cho vua, đàn hạc, đàn lia cho các nhạc sĩ; từ trước đến nay người ta chưa bao giờ thấy những việc như vậy tại Giu-đa. Vua Sa-lô-môn tặng cho nữ vương Sê-ba mọi điều bà mơ ước và xin; vua ban cho bà nhiều hơn những tặng phẩm bà dâng cho vua. Sau đó nữ vương và các tôi tớ bà trở về nước mình. Mỗi năm vua Sa-lô-môn nhận được khoảng sáu trăm sáu mươi sáu ta-lâng,9:13 Khoảng 23 tấn không kể số vàng những thương gia và người buôn bán đem vào. Tất cả các vua vùng A-ra-bia và thống đốc trong vùng cũng đem vàng, bạc đến cho vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn làm hai trăm cái khiên lớn bằng vàng dát, mỗi cái dùng sáu trăm bê-ka vàng,9:15 khoảng 3kg ba trăm cái khiên nhỏ bằng vàng dát, mỗi cái dùng ba trăm bê-ka vàng;9:16 khoảng 1.7kg vua để những khiên ấy tại Cung Rừng ở Li-ban. Vua làm một cái ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng; có một bậc thang sáu cấp và bệ chân bằng vàng đính vào ngai; hai bên ngai có thành tựa tay và hai con sư tử đứng bên thành tựa tay; cũng có mười hai con sư tử đứng ở hai đầu mỗi nấc thang; không có nước nào làm ngai giống như vậy. Tất cả các đồ dùng để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng và tất cả các vật dụng ở Cung Rừng ở Li-ban đều bằng vàng ròng. Trong thời vua Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. Thật vậy, các thương thuyền của vua đi Ta-rê-si9:21 Ctd: Thương thuyền kiểu Ta-rê-si với các tôi tớ vua Hu-ram; cứ mỗi ba năm tàu trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, đười ươi và chim công. Như thế, vua Sa-lô-môn vĩ đại hơn tất cả các vua khác trên đất về cả giàu có lẫn khôn ngoan. Tất cả các vua trên đất đều mong gặp mặt vua Sa-lô-môn để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã ban cho tâm trí ông; mỗi người đều đem lễ vật bằng bạc, bằng vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và la; cứ như thế hằng năm. Vua Sa-lô-môn có 4,000 chuồng ngựa và nhà để xe ngựa, 12,0009:25 Ctd: kỵ binh ở tại các thành chứa xe ngựa và ở bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua thống trị tất cả các vua từ sông cái9:26 Tức là sông Ơ-phơ-rát đến xứ Phi-li-tin cho đến biên giới Ai Cập. Tại Giê-ru-sa-lem, vua làm cho bạc trở nên như đá sỏi và gỗ bá hương thì nhiều như cây vả ở vùng Sô-phê-la. Vua Sa-lô-môn nhập cảng ngựa từ Ai Cập và mọi nước khác. Còn các câu chuyện khác của vua Sa-lô-môn, từ đầu đến cuối, đều được ghi trong sách của tiên tri Na-than, trong sách tiên tri của A-hi-gia, người Si-lô, trong sách khải tượng của Giê-đô, vị tiên kiến nói về Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Vua Sa-lô-môn an nghỉ cùng tổ tiên mình, được chôn cất trong thành Đa-vít, thành của vua cha. Thái tử Rô-bô-am lên ngôi kế vị người. Các Vua Nước Giu-đa Rô-bô-am đi lên Si-chem vì toàn thể Y-sơ-ra-ên đã lên Si-chem để phong vương cho ông. Khi Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, nghe điều ấy, liền từ Ai Cập trở về, lúc bấy giờ người đang ở Ai Cập vì đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó. Người ta mời Giê-rô-bô-am về; người và toàn thể Y-sơ-ra-ên đến thưa cùng Rô-bô-am rằng: “Thân phụ Ngài đã đặt một ách nặng trên chúng tôi; nay xin ngài giảm bớt sự phục dịch khó nhọc và ách nặng nề mà thân phụ ngài đã đặt trên chúng tôi thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” Người nói với họ: “Hãy trở lại gặp ta trong ba ngày.” Thế là dân chúng ra về. Bấy giờ vua Rô-bô-am tham khảo với các trưởng lão đã từng phục vụ vua cha Sa-lô-môn khi người còn sống. “Các ông nghĩ rằng ta nên đáp lời thế nào cho dân chúng?” Họ trả lời vua: “Nếu ngài tốt với dân, làm vui lòng dân, dùng lời lẽ nhân từ phán với dân thì họ sẽ suốt đời phục vụ vua.” Nhưng vua bỏ lời cố vấn của các trưởng lão; người tham khảo các thanh niên cùng lớn lên với mình và đang phục vụ mình. Vua hỏi họ: “Dân này xin ta giảm nhẹ ách mà cha ta đã đặt trên họ, các ngươi nghĩ rằng ta nên trả lời thế nào cho chúng?” Các thanh niên, những người cùng lớn lên với vua trả lời: “Vua hãy bảo dân chúng, những người đã tâu cùng vua rằng thân phụ vua đã đặt ách nặng trên họ và xin vua giảm nhẹ cho họ, vua hãy nói với chúng thế này: ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn lưng của cha ta. Này, cha ta đã đặt ách nặng trên các ngươi; ta sẽ tăng thêm cho nặng hơn. Cha ta đã trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các người bằng bọ cạp.’ ” Ba ngày sau Giê-rô-bô-am và tất cả dân chúng trở lại với vua Rô-bô-am như người đã bảo họ, hãy trở lại gặp ta trong ba ngày. Vua trả lời cứng rắn với họ, vua Rô-bô-am bỏ lời khuyên của các trưởng lão. Vua trả lời họ theo lời khuyên của các thanh niên rằng cha ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, ta sẽ tăng thêm; người đã trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt bằng bọ cạp. Như thế vua không nghe theo dân chúng và việc xảy ra như vậy là do Đức Chúa Trời để CHÚA làm ứng nghiệm lời Ngài đã dùng A-hi-gia, người Si-lô, phán với Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Khi thấy vua không nghe theo mình, toàn thể Y-sơ-ra-ên đáp lời vua: “Chúng ta có phần gì với Đa-vít? Chúng ta không có phần gì với con trai Y-sai. Bây giờ, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về nhà mình. Hỡi Đa-vít, hãy coi chừng nhà ông.” Thế là toàn thể Y-sơ-ra-ên trở về nhà mình. Nhưng vua Rô-bô-am vẫn cai trị trên những người Y-sơ-ra-ên sống trong các thành tại Giu-đa. Bấy giờ vua Rô-bô-am sai Ha-đô-ram đến, người quản đốc việc lao động cưỡng bách, nhưng người Y-sơ-ra-ên ném đá ông và ông chết; còn vua Rô-bô-am vội vã lên xe ngựa trốn về Giê-ru-sa-lem. Như thế người Y-sơ-ra-ên chống lại nhà Đa-vít cho đến ngày nay. Giu-đa Và Bên-gia-min Kết Hiệp Khi vua Rô-bô-am về đến Giê-ru-sa-lem, người triệu tập 180,000 chiến sĩ từ nhà Giu-đa và Bên-gia-min để tấn công Y-sơ-ra-ên và phục hồi vương quốc về cho Rô-bô-am. Nhưng lời của CHÚA đến với Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời, phán: “Hãy nói với Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, vua Giu-đa và toàn thể người Y-sơ-ra-ên trong Giu-đa và Bên-gia-min rằng, CHÚA phán thế này: ‘Các ngươi chớ đi lên tấn công anh em mình, mỗi người hãy trở về nhà vì việc này do Ta mà ra.’ ” Họ vâng lời CHÚA, trở về, không tấn công Giê-rô-bô-am nữa. Vua Rô-bô-am ở tại Giê-ru-sa-lem; người xây dựng các thành trong Giu-đa để phòng thủ. Người xây dựng các thành Bết-lê-hem, Ê-tam, Thê-cô-a, Bết-sua, Sô-cô, A-đu-lam, Gát, Ma-rê-sa, Xíp, A-đô-ra-im, La-ki, A-xê-ka, Xô-rê-a, A-gia-lôn và Hếp-rôn. Đó là những thành kiên cố trong Giu-đa và Bên-gia-min. Vua tăng cường việc phòng thủ cho các thành, đặt người chỉ huy, chứa lương thực, dầu và rượu. Vua cũng cung cấp khiên lớn và giáo cho tất cả các thành, làm cho chúng trở nên rất kiên cố. Như vậy Giu-đa và Bên-gia-min thuộc về vua. Những thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp các vùng trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên đều theo vua Rô-bô-am. Người Lê-vi đã bỏ tài sản và đồng ruộng của mình để đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vì Giê-rô-bô-am và các con trai người không cho họ làm thầy tế lễ cho CHÚA. Giê-rô-bô-am lập các thầy tế lễ cho mình tại những nơi cao, cho các tượng dê đực và bò con mà người đã làm ra. Từ mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên, những người hết lòng tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đều theo những người Lê-vi đến Giê-ru-sa-lem để dâng sinh tế cho CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Họ làm cho vương quốc Giu-đa vững mạnh; họ hỗ trợ vua Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn trong ba năm; thật vậy, trong ba năm họ đã đi theo đường lối của Đa-vít và Sa-lô-môn. Rô-bô-am cưới Ma-ha-lát, con gái của Giê-ri-mốt, cháu Đa-vít, làm vợ và A-bi-hai, con gái Ê-li-áp, cháu Y-sai. Bà sinh cho người các con trai là Giê-úc, Sê-ma-ri-a và Xa-ham. Sau đó vua lấy Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm; bà sinh cho người: A-bi-gia, Át-thai, Xi-xa, và Sê-lô-mi. Vua Rô-bô-am yêu Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm hơn các bà vợ và thứ phi khác; vì người lấy mười tám bà vợ và sáu mươi cung phi, có hai mươi tám con trai và sáu mươi con gái. Vua Rô-bô-am lập A-bi-gia, con trai bà Ma-a-ca làm trưởng, làm thái tử giữa vòng các anh em mình, để kế vị vua. Vua hành động khôn khéo, phân tán các hoàng tử đi khắp các vùng của Giu-đa và Bên-gia-min, đến các thành kiên cố, ban cho họ lương thực dồi dào và cưới cho nhiều vợ. Ai-cập Tấn Công Nước Giu-đa Khi Rô-bô-am củng cố vương quốc và trở nên hùng cường, vua và toàn thể Y-sơ-ra-ên từ bỏ Kinh Luật của CHÚA. Vào năm thứ năm đời vua Rô-bô-am, vì họ bất trung với CHÚA nên Si-sắc, vua Ai-cập tấn công Giê-ru-sa-lem. Từ Ai-cập người đem 1,200 xe chiến mã, 60,000 kỵ binh và vô số lính chiến Ly-bi, Su-ri và Ê-thi-ô-bi. Si-sắc chiếm cứ các thành kiên cố trong Giu-đa và tiến đến tận Giê-ru-sa-lem. Tiên tri Sê-ma-gia đến cùng vua Rô-bô-am và những người lãnh đạo Giu-đa đang tụ họp tại Giê-ru-sa-lem vì sợ Si-sắc; người nói với họ, CHÚA phán thế này: “Các ngươi đã từ bỏ Ta nên Ta cũng từ bỏ các ngươi vào tay Si-sắc.” Bấy giờ những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên và vua đều hạ mình xuống, tuyên xưng: “CHÚA là công chính”. Khi CHÚA thấy họ hạ mình xuống, có lời của CHÚA phán với Sê-ma-gia rằng: Vì chúng nó đã hạ mình xuống, Ta sẽ không hủy diệt nhưng sẽ sớm giải cứu chúng. Ta sẽ không dùng tay Si-sắc trút cơn thịnh nộ Ta xuống Giê-ru-sa-lem nữa; Nhưng chúng nó sẽ phải phục dịch vua ấy để biết sự phục dịch Ta khác với sự phục dịch các vua trên đất là thể nào. Si-sắc, vua Ai-cập, tấn công Giê-ru-sa-lem; người chiếm đoạt tất cả báu vật trong đền thờ CHÚA và trong cung vua; người cũng lấy tất cả các khiên bằng vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm. Vì thế vua Rô-bô-am làm các khiên bằng đồng để thay thế; vua giao cho những người chỉ huy quân cảnh vệ canh gác cửa hoàng cung giữ. Mỗi khi vua vào đền thờ CHÚA, những người lính cảnh vệ mang các khiên ấy ra rồi lại đem cất vào kho cảnh vệ. Vì vua Rô-bô-am đã hạ mình xuống nên tránh được cơn thịnh nộ của CHÚA và không bị hủy diệt hoàn toàn; thật ra cũng có một vài điều tốt lành trong nước Giu-đa. Vậy, vua Rô-bô-am củng cố vững vàng và trị vì tại Giê-ru-sa-lem. Vua lên ngôi lúc bốn mươi mốt tuổi và trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành CHÚA chọn giữa các bộ tộc Y-sơ-ra-ên và đặt danh Ngài ở đó. Mẹ vua tên là Na-a-ma, người Am-môn. Vua đã làm điều ác vì không dốc lòng tìm kiếm CHÚA. Những công việc của vua Rô-bô-am, từ đầu đến cuối, đã chẳng được ghi chép trong sách của tiên tri Sê-ma-gia và Y-đô, vị tiên kiến, theo cách chép gia phả sao? Trong suốt thời trị vì, vua Rô-bô-am luôn luôn có chiến tranh với Giê-rô-bô-am. Vua Rô-bô-am an giấc với tổ phụ và được chôn cất trong thành Đa-vít. Thái tử A-bi-gia lên ngôi kế vị vua. Vua A-bi-gia Trị Vì Vào năm thứ mười tám thời vua Giê-rô-bô-am, A-bi-gia lên làm vua nước Giu-đa. Người trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm. Mẹ vua tên là Mi-ca-gia, con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a. Lúc bấy giờ có chiến tranh giữa vua A-bi-gia và vua Giê-rô-bô-am. Vua A-bi-gia đem một lực lượng 400,000 chiến sĩ tinh nhuệ ra trận, còn Giê-rô-bô-am đem 800,000 quân tinh nhuệ, là những dũng sĩ, ra dàn trận nghênh chiến. Vua A-bi-gia đứng trên núi Xê-ra-ma-im thuộc miền đồi núi Ép-ra-im; người nói: “Hỡi Giê-rô-bô-am và toàn thể Y-sơ-ra-ên, hãy nghe ta, Các ngươi không biết rằng trong một giao ước bằng muối, CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban quyền cai trị trên Y-sơ-ra-ên cho vua Đa-vít và dòng dõi người đời đời sao? Nhưng Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, tôi tớ vua Sa-lô-môn, con trai vua Đa-vít, đã nổi loạn chống lại chủ mình. Những tên côn đồ, vô lại hùa theo nó chống lại vua Rô-bô-am, con trai vua Sa-lô-môn khi vua Rô-bô-am còn trẻ, thiếu cương quyết, chưa đủ mạnh để chống lại chúng. Bây giờ các ngươi tưởng sẽ chống cự nổi vương quốc của CHÚA đang ở trong tay con cháu vua Đa-vít sao? Dù các ngươi có quân đông, có bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã đúc để làm thần các ngươi. Chẳng phải các ngươi đã đuổi các thầy tế lễ của CHÚA, là con cháu A-rôn và người Lê-vi sao? Rồi các ngươi lập các thầy tế lễ cho mình như dân bản xứ. Bất cứ ai đem một con bò tơ đực, bảy con dê đực đến dâng để xin thụ phong thì sẽ được làm thầy tế lễ cho cái không phải là thần. Đối với chúng ta, CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta không từ bỏ Chúa. Những thầy tế lễ phục vụ CHÚA đều là con cháu A-rôn và những người Lê-vi thi hành phận sự của họ. Mỗi buổi sáng và buổi chiều, người ta dâng tế lễ thiêu cho CHÚA; người ta cũng đốt hương thơm, trình dâng bánh trên bàn thanh sạch; đèn trên các chân đèn bằng vàng đều được thắp sáng mỗi đêm. Thật vậy, chúng ta tuân giữ những điều CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta truyền, còn các ngươi từ bỏ Ngài. Này, Đức Chúa Trời là Đấng lãnh đạo chúng ta và ở cùng chúng ta. Những thầy tế lễ của Ngài sẽ thổi kèn xuất quân tấn công các ngươi. Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đừng chiến đấu chống lại CHÚA, là Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi vì các ngươi sẽ không thắng được.” Bấy giờ Giê-rô-bô-am đã sai quân đi vòng phía sau quân Giu-đa cho nên khi họ ở phía trước thì quân phục kích phía sau chúng. Khi quân Giu-đa quay lại, kìa họ bị tấn công từ phía trước lẫn phía sau. Họ kêu cầu cùng CHÚA và các thầy tế lễ thì thổi kèn lên. Bấy giờ người Giu-đa hò hét xung trận; khi người Giu-đa hò hét xung trận, Đức Chúa Trời đánh bại Giê-rô-bô-am và toàn quân Y-sơ-ra-ên trước mặt vua A-bi-gia và người Giu-đa. Quân Y-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Giu-đa; Đức Chúa Trời trao chúng nó vào tay quân Giu-đa. Vua A-bi-gia và quân Giu-đa đánh bại và gây thiệt hại nặng nề cho quân Y-sơ-ra-ên; có 500,000 quân tinh nhuệ của họ bị thiệt mạng. Trong trận ấy quân Y-sơ-ra-ên bị thua trận, còn quân Giu-đa thắng trận vì họ đã nương cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua A-bi-gia đuổi theo Giê-rô-bô-am và chiếm cứ các thành Bê-tên và phụ cận, Giê-sa-na và phụ cận và Ếp-rôn cùng phụ cận. Trong thời vua A-bi-gia, Giê-rô-bô-am không phục hồi được quyền lực; CHÚA đánh phạt người và người chết. Nhưng vua A-bi-gia trở nên cường thịnh; người lấy mười bốn vợ và có hai mươi hai con trai và mười sáu con gái. Những việc khác của vua A-bi-gia, đường lối và hành động của vua được chép trong sách của tiên tri Y-đô. Cuộc Trị Vì Của A-sa Vua A-bi-gia an giấc cùng tổ phụ mình và được chôn cất trong thành Đa-vít. A-sa con trai người lên ngôi kế vị. Trong thời vua A-sa đất nước được bình an mười năm. Vua A-sa làm điều thiện và ngay thẳng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời người. Vua loại bỏ các bàn thờ của người ngoại quốc, những nơi cao; đập bể các trụ thờ và phá bỏ các cột thờ.14:3 Hình tượng của nữ thần Asherah Vua truyền cho nước Giu-đa phải tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ và tuân theo Kinh Luật, điều răn của Ngài. Vua loại bỏ tất cả những nơi cao và bàn thờ dâng hương trong các thành của Giu-đa; dưới thời vua, vương quốc được thái bình. Nhờ đất nước được bình an, vua xây dựng những thành kiên cố trong Giu-đa. Trong suốt những năm người trị vì không có chiến tranh vì CHÚA ban cho vua thái bình. Vua nói với người Giu-đa: “Chúng ta hãy xây dựng những thành này, xây tường chung quanh, dựng tháp canh, cổng và then cài vì đất nước vẫn thuộc về chúng ta. Vì chúng ta đã tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta; chúng ta đã tìm kiếm Ngài nên Ngài ban cho chúng ta bình an mọi bề.” Như thế họ xây dựng và thịnh vượng. Vua A-sa có một quân đội gồm 300,000 người Giu-đa trang bị khiên lớn và giáo và 280,000 người Bên-gia-min trang bị khiên nhỏ và cung; tất cả đều là những chiến sĩ tinh nhuệ. Bấy giờ Xê-rách, người Ê-thi-ô-bi đem một đạo binh 1,000,000 quân14:9 Có thể là hàng ngàn quân với 300 xe chiến mã đến tấn công người Giu-đa; chúng kéo đến tận Ma-rê-sa. Vua A-sa đi ra nghênh chiến và dàn quân tại thung lũng Xê-pha-ta, gần Ma-rê-sa. Vua A-sa cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời mình rằng: “Lạy CHÚA, không có thần nào như Ngài, Đấng giúp đỡ người yếu chống lại kẻ mạnh; lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, xin giúp đỡ chúng con, chúng con nương cậy nơi Ngài; chúng con nhân danh Ngài đi ra chống lại đoàn quân đông đảo này, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, xin đừng để phàm nhân thắng hơn Chúa.” CHÚA đánh tan quân Ê-thi-ô-bi trước mặt vua A-sa và người Giu-đa; chúng bỏ chạy. Vua A-sa và đoàn quân của người truy kích chúng đến tận Ghê-ra. Quân Ê-thi-ô-bi ngã gục, không phương cứu vãn; chúng bị đánh tan trước mặt CHÚA và trước đội quân của Ngài. Người ta chiếm được một số lớn chiến lợi phẩm. Quân Giu-đa cũng tiêu diệt mọi thành chung quanh Ghê-ra vì sự kinh hoàng từ CHÚA giáng xuống các thành ấy và họ chiếm đoạt tài sản vì có rất nhiều sản vật trong đó. Họ cũng tấn công các trại nuôi súc vật, cướp đoạt nhiều bầy cừu và lạc đà, rồi rút quân về Giê-ru-sa-lem. Vua A-sa Phá Bỏ Các Nơi Thờ Hình Tượng Thần của Đức Chúa Trời đến trên A-xa-ri, con trai Ô-đết; Người đến và thưa với vua A-sa: “Tâu vua A-sa cùng tất cả người Giu-đa và Bên-gia-min, xin hãy nghe tôi, CHÚA ở cùng các ngươi khi các ngươi ở cùng Ngài; nếu các ngươi tìm kiếm Ngài, các ngươi sẽ gặp được; nếu các ngươi từ bỏ Ngài, Ngài sẽ từ bỏ các ngươi. Đã lâu nay, Y-sơ-ra-ên không có một Đức Chúa Trời thật; không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng không có Kinh Luật. Nhưng trong khi hoạn nạn, họ quay trở lại cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tìm kiếm Ngài và Ngài cho họ gặp được. Vào thời ấy việc đi lại không được an toàn vì dân cư trong các xứ bị loạn lạc lớn. Nước này bị nước kia giày đạp; thành này bị thành nọ tấn công vì Đức Chúa Trời giáng đủ mọi điều khốn khổ xuống làm chúng rối loạn. Nhưng các ngươi, hãy can đảm lên, đừng buông xuôi bỏ cuộc vì công việc các ngươi làm sẽ được thưởng.” Khi vua A-sa nghe những lời này và lời tiên tri của tiên tri Ô-đết thì vua được can đảm. Vua dẹp bỏ tất cả những hình tượng gớm ghiếc trong khắp lãnh thổ Giu-đa, Bên-gia-min và các thành người chiếm được trên đồi Ép-ra-im. Vua cũng tu bổ bàn thờ của CHÚA trước tiền đường đền thờ CHÚA. Vua A-sa triệu tập tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min và những người Ép-ra-im, Ma-na-se cùng Si-mê-ôn đương cư ngụ với họ vì có nhiều người Y-sơ-ra-ên đến theo vua khi họ thấy CHÚA, Đức Chúa Trời của vua ở cùng người. Tháng ba năm thứ mười lăm đời vua A-sa, họ tụ họp tại Giê-ru-sa-lem; lúc bấy giờ họ lấy 700 con bò và 7,000 con chiên từ chiến lợi phẩm để dâng tế lễ cho CHÚA. Họ hết lòng, hết linh hồn lập giao ước thờ phượng15:12 Nt: tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Bất cứ ai không thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ bị xử tử, bất luận lớn hay nhỏ, đàn ông hay đàn bà. Họ hô to tuyên thệ cùng CHÚA, reo hò, thổi kèn và thổi tù và. Cả nước Giu-đa vui mừng về lời thề ấy vì họ hết lòng tuyên thệ và hết sức tìm kiếm CHÚA nên Ngài cho họ gặp được và ban cho họ bình an mọi bề. Vua A-sa cũng cách chức thái hậu của bà nội ông, bà Ma-a-ca, vì bà đã làm trụ thờ A-sê-ra ghê tởm. Vua hạ cây trụ thờ ghê tởm ấy xuống, đập nát và đốt trong thung lũng Xết-rôn. Dù các nơi cao để thờ tự trong Y-sơ-ra-ên không bị phá bỏ, vua A-sa vẫn trọn lòng với CHÚA suốt đời mình. Vua đem những vật thánh vua cha và chính vua đã tận hiến: bạc, vàng và các vật dụng, vào đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ không có chiến tranh cho đến năm thứ ba mươi lăm dưới triều vua A-sa. Vua A-sa Liên Minh Với Sy-ri Năm thứ ba mươi sáu thời vua A-sa, vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên lên tấn công Giu-đa. Vua củng cố thành Ra-ma để cô lập lãnh thổ Giu-đa của vua A-sa. Bấy giờ vua A-sa lấy bạc, vàng trong kho đền thờ CHÚA và trong cung vua đem nộp cho Bên Ha-đát, vua A-ram đang trị vì tại Đa-mách, nói rằng: “Xin hãy kết ước với tôi như thân phụ vua và thân phụ tôi đã làm. Đây, tôi xin gởi bạc vàng đến vua. Xin vua hãy hủy bỏ giao ước với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên để người rút khỏi xứ tôi.” Vua Bên Ha-đát chấp thuận lời vua A-sa, sai các tướng chỉ huy lực lượng tấn công các thành của Y-sơ-ra-ên và chiếm đoạt thành Y-giôn, Đan, A-bên-ma-im cùng các nhà kho trong các thành thuộc Nép-ta-li. Khi nghe tin ấy, vua Ba-ê-sa ngưng và bãi bỏ công việc xây cất thành Ra-ma. Bấy giờ vua A-sa đem toàn lực người Giu-đa đến lấy gỗ và đá mà vua Ba-ê-sa dùng để xây thành Ra-ma; vua dùng đồ đó xây cất thành Ghê-ba và Mích-ba. Ngay khi ấy vị tiên kiến Ha-na-ni đến nói với A-sa, vua Giu-đa rằng: “Vì vua đã nương cậy vào vua Sy-ri, chứ không nương cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời của vua cho nên lực lượng của vua Sy-ri đã thoát khỏi tay vua. Quân Ê-thi-ô-bi và Li-by không hùng hậu sao? Các xe chiến mã và kỵ binh của chúng chẳng phải rất đông đảo sao? Dù vậy vua đã nương cậy nơi CHÚA và Ngài đã phó chúng vào tay vua. Vì mắt CHÚA soi xét khắp quả đất để tăng cường sức lực cho những người giữ lòng trung thành với Ngài. Thật vậy, trong việc này, vua đã hành động dại dột, nên từ nay vua sẽ luôn luôn phải đối diện với chiến tranh.” Vua A-sa nổi giận với vị tiên kiến; vì tức giận, vua cùm và bỏ tù người; trong lúc ấy vua cũng đàn áp một số người khác. Này, các công việc của vua A-sa, từ đầu đến cuối, đều được chép trong sách của các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Năm thứ ba mươi chín dưới triều mình, vua A-sa bị đau bàn chân, bệnh trở nên rất nặng nhưng vua không tìm kiếm CHÚA, chỉ tìm các thầy thuốc chữa trị. Vào năm thứ bốn mươi mốt dưới triều vua, vua A-sa băng hà và an giấc cùng tổ phụ mình. Người ta chôn cất vua trong mộ mà vua đã đục cho mình tại thành Đa-vít. Vua được đặt trên sàng phủ đầy hương liệu, các loại hương liệu khác nhau được pha chế theo kỷ thuật làm dầu thơm. Người ta cũng đốt lửa rất lớn để tôn kính vua. Triều Đại Vua Giê-hô-sa-phát Thái tử Giê-hô-sa-phát lên ngôi kế vị; người củng cố đất nước mình để đối đầu với Y-sơ-ra-ên. Vua đóng quân tại khắp các thành kiên cố của Giu-đa, lập đồn trong vùng Giu-đa và tại các thành của Ép-ra-im mà vua cha A-sa đã chiếm được. CHÚA ở cùng vua Giê-hô-sa-phát vì vua đi theo con đường vua Đa-vít, tổ phụ người đã đi trước đây và không tìm kiếm thần Ba-anh, nhưng tìm kiếm Đức Chúa Trời của thân phụ mình và tuân theo các điều răn của Ngài chứ không như nước Y-sơ-ra-ên đã làm. Vì thế CHÚA củng cố vương quốc trong tay vua. Toàn thể Giu-đa đem cống phẩm dâng cho vua Giê-hô-sa-phát cho nên vua trở nên rất giàu có và vinh hiển. Vua được phấn khởi trong các đường lối của CHÚA và tiếp tục phá bỏ các nơi cao cũng như những trụ thờ trong Giu-đa. Năm thứ ba dưới triều vua, vua sai các quan Bên-hai, Ô-ba-đia, Xa-cha-ri, Na-tha-na-ên, và Mi-ca-gia đi dạy dỗ tại các thành của Giu-đa. Cùng đi với họ có những người Lê-vi sau đây: Sê-ma-gia, Nê-tha-nia, Xê-ba-đia, A-sa-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giô-na-than, A-đô-ni-gia, Tô-bi-gia và Tô-ba-đô-ni-gia; ngoài ra cũng có các thầy tế lễ Ê-li-sa-ma và Giô-ram. Họ đem theo Kinh Luật của CHÚA và dạy dỗ dân chúng trong khắp các thành của Giu-đa. CHÚA giáng kinh hoàng xuống các nước chung quanh Giu-đa khiến chúng không dám gây chiến với vua Giê-hô-sa-phát. Người Phi-li-tin đem lễ vật và bạc triều cống vua Giê-hô-sa-phát; còn người Ả-rập cũng đem dâng vua các bày súc vật: 7,700 con chiên đực và 7,700 con dê đực. Vua Giê-hô-sa-phát trở nên ngày càng cường thịnh; vua xây cất đồn lũy và các thành có nhà kho trong Giu-đa. Vua cũng có nhiều nguồn dự trữ tại các thành trong Giu-đa và những binh sĩ thiện chiến tại Giê-ru-sa-lem. Danh sách của những người này theo gia tộc như sau: Từ Giu-đa, các tướng chỉ huy 1,000 quân gồm có: Át-na, tướng chỉ huy 300,000 dũng sĩ. Kế người là Giô-ha-nan, tướng chỉ huy 280,000 quân; rồi đến A-ma-sia, con trai Xiếc-ri, người tình nguyện phục vụ CHÚA, người chỉ huy 200,000 dũng sĩ. Từ Bên-gia-min có Ê-li-a-đa, một dũng sĩ, người chỉ huy 200,000 binh sĩ cầm khiên và bắn cung; kế người là Giê-hô-gia-bát, người chỉ huy 180,000 binh sĩ vũ trang sẵn sàng để chiến đấu. Đây là những người phục vụ vua, ngoài ra vua cũng đặt những người khác tại các thành kiên cố khắp Giu-đa. Vua Giê-hô-sa-phát Liên Minh Với Vua A-háp Vua Giê-hô-sa-phát trở nên rất giàu có và vinh hiển, vua kết thông gia với vua A-háp. Sau đó vài năm vua đi xuống thăm vua A-háp tại Sa-ma-ri. Vua A-háp giết thịt nhiều chiên và bò thết đãi vua và đoàn tùy tùng; người cũng thuyết phục vua tấn công Ra-mốt Ga-la-át. A-háp, vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa rằng: “Ngài có muốn cùng tôi đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không?” Người trả lời: “Tôi cũng như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, chúng tôi sẽ tham chiến với ngài.” Vua Giê-hô-sa-phát cũng nói với vua Y-sơ-ra-ên: “Nhưng hãy thỉnh cầu lời chỉ dẫn của CHÚA trước đã.” Bấy giờ vua Y-sơ-ra-ên triệu tập các tiên tri, khoảng 400 người. Vua hỏi họ: “Chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay nên đình hoãn lại?” Họ trả lời: “Vua hãy đi, Đức Chúa Trời sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Nhưng vua Giê-hô-sa-phát hỏi: “Ở đây không còn một tiên tri nào khác của CHÚA để chúng ta hỏi người sao?” Vua Y-sơ-ra-ên đáp lời vua Giê-hô-sa-phát: “Còn một người chúng ta có thể nhờ để thỉnh cầu CHÚA, tên ông ta là Mai-ca, con trai Giêm-la, nhưng tôi ghét ông ấy, ông ta không bao giờ nói tiên tri tốt về tôi nhưng chỉ toàn là xấu mà thôi.” Vua Giê-hô-sa-phát đáp: “Vua không nên nói như thế.” Vua Y-sơ-ra-ên gọi một vị quan và bảo: “Hãy truyền cho Mai-ca, con trai Giêm-la đến đây ngay.” Vua Y-sơ-ra-ên và vua Giu-đa, Giê-hô-sa-phát, mỗi người mặc hoàng bào, ngồi trên ngai mình tại sân đạp lúa nơi cổng thành Sa-ma-ri; tất cả các tiên tri đang nói tiên tri trước mặt các vua. Bấy giờ Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, làm những sừng bằng sắt, tuyên bố, “CHÚA phán như vầy, Ngươi sẽ dùng các sừng này húc Sy-ri cho đến khi hủy diệt chúng.” Tất cả các tiên tri đều nói tiên tri như vậy: “Hãy tấn công Ra-mốt Ga-la-át, vua sẽ thành công; CHÚA sẽ trao thành ấy vào tay vua.” Sứ giả đi mời Mai-ca và nói với người: “Kìa, các tiên tri đều nói cùng một điều rằng vua sẽ thành công, vậy lời của ông nên hợp với họ, ông nên nói điều lành.” Nhưng Mai-ca đáp: “CHÚA là Đấng hằng sống, ta chỉ có thể nói với vua điều gì Đức Chúa Trời của ta phán.” Khi người đến, vua hỏi: “Mai-ca, chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay nên đình hoãn lại?” Người đáp: “Cứ đánh đi, vua sẽ chiến thắng mà, thành sẽ lọt vào tay vua.” Vua nói với người: “Đã bao lần ta phải buộc ngươi thề rằng nhân danh CHÚA ngươi chỉ nói sự thật với ta?” Người đáp: “Tôi thấy toàn thể Y-sơ-ra-ên chạy tán loạn trên các đồi như bày chiên không có người chăn; và CHÚA phán: ‘Những người này không có chủ, hãy để mỗi người trở về nhà bình an.’ ” Vua Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Tôi đã chẳng nói với ngài sao, ông ta không bao giờ nói tiên tri lành về tôi, chỉ toàn điều dữ.” Mai-ca tiếp: “Vậy, hãy nghe lời CHÚA, tôi thấy CHÚA ngồi trên ngai và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu bên phải và bên trái. CHÚA hỏi: ‘Ai sẽ dụ A-háp, vua Y-sơ-ra-ên đi lên và ngã gục tại Ra-mốt Ga-la-át?’ Người nói thế này, kẻ nói thế nọ. Bấy giờ một thần tiến lên, đứng trước mặt CHÚA và thưa: ‘Tôi sẽ dụ người.’ CHÚA hỏi: ‘Bằng cách nào?’ Thần đáp: ‘Tôi sẽ đi và làm thần nói láo trong miệng của tất cả các tiên tri của người.’ CHÚA bảo: ‘Ngươi sẽ dụ được người và thành công, hãy đi và làm như vậy.’ Như vậy CHÚA đặt thần nói láo vào miệng các tiên tri của vua; CHÚA đã định tai họa cho vua.” Bấy giờ Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, đến gần, vả vào má Mai-ca và hỏi: “Thần của CHÚA từ ta đã đi đường nào đến để nói cùng ngươi?” Mai-ca trả lời: “Này, vào ngày ấy ngươi sẽ thấy, khi ngươi phải chạy vào phòng trong để trốn.” Vua Y-sơ-ra-ên liền ra lệnh: “Hãy bắt Mai-ca, đem trả cho A-môn, quan cai trị thành và cho hoàng tử Giô-ách. Các ngươi hãy nói với họ, vua truyền: Hãy giam tên này vào tù, cho ăn uống tối thiểu thôi cho đến khi ta trở về bình an.” Mai-ca tuyên bố: “Nếu vua trở về bình an, CHÚA đã không dùng tôi để phán; ông nói tiếp: ‘Hỡi toàn dân, các người hãy nghe ta.’ ” Bấy giờ vua Y-sơ-ra-ên và Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa đi lên Ra-mốt Ga-la-át. Vua Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Tôi sẽ ngụy trang để ra trận, còn ngài cứ mặc áo của ngài.” Thế là vua Y-sơ-ra-ên ngụy trang và ra trận. Vua Sy-ri đã ra lệnh cho các tướng chỉ huy các xe chiến mã của mình rằng: “Các ngươi đừng tấn công ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ tấn công một mình vua Y-sơ-ra-ên mà thôi.” Khi các tướng chỉ huy xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ tưởng đó là vua Y-sơ-ra-ên nên kéo quân tấn công người. Vua Giê-hô-sa-phát kêu cứu và CHÚA giải cứu người; Đức Chúa Trời làm cho chúng tránh xa vua. Khi các tướng chỉ huy xe chiến mã nhận thấy đó không phải là vua Y-sơ-ra-ên, họ quay lại, không rượt theo vua nữa. Bấy giờ tình cờ một người giương cung bắn đại; mũi tên trúng vào giữa vành áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên; vua bảo người đánh xe: “Hãy quay cương lại, đem ta ra khỏi chiến trận vì ta bị thương rồi.” Trận chiến trở nên dữ dội suốt ngày hôm ấy; còn vua Y-sơ-ra-ên đứng dựa vào xe, đối diện với quân Sy-ri cho đến chiều tối. Vua từ trần lúc mặt trời lặn. Vua Giê-hô-sa-phát Bị Trách Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa trở về cung mình bình an tại Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ Giê-hu, vị tiên kiến, con trai Ha-na-ni đến gặp và nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Ngài có nên giúp kẻ ác và yêu kẻ ghét CHÚA không? Vì ngài đã làm điều này nên cơn thịnh nộ từ CHÚA sẽ giáng xuống ngài. Tuy nhiên ngài cũng có những điều tốt khi phá hủy các trụ thờ khỏi đất nước và quyết tâm tìm kiếm Đức Chúa Trời.” Vua Giê-hô-sa-phát cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem. Sau đó vua lại ra đi thăm dân từ Bê-e-sê-ba cho đến vùng đồi núi Ép-ra-im và đem họ trở về cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua lập thẩm phán cho xứ sở, cử đến mọi thành kiên cố của Giu-đa, thành nào cũng có. Vua nói với các thẩm phán: “Hãy cẩn thận trong công việc của mình vì các ngươi không phải nhân danh người phàm để xét xử nhưng nhân danh CHÚA và Ngài sẽ ở cùng các ngươi khi các ngươi định án. Vậy, phải kính sợ CHÚA, hãy cẩn thận trong công việc xét xử vì đối với CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta, sẽ không có bất công, thiên vị hay nhận của hối lộ.” Vua Giê-hô-sa-phát cũng lập tại Giê-ru-sa-lem một số người Lê-vi, thầy tế lễ và gia trưởng trong Y-sơ-ra-ên để thi hành luật của CHÚA và giải quyết các vụ tranh tụng; họ cư trú tại Giê-ru-sa-lem. Vua truyền cho họ rằng: “Các ngươi phải làm thế này, phải kính sợ CHÚA, phải trung tín và hết lòng. Trong mỗi vụ kiện anh em các ngươi trong các thành đem đến để xét xử, dù là chuyện đổ máu, về Kinh Luật, điều răn, đạo luật hay sắc lệnh thì các ngươi phải dạy bảo chúng đừng phạm tội cùng CHÚA kẻo cơn thịnh nộ của Ngài giáng xuống trên các ngươi và chúng nó. Nếu các ngươi làm như thế các ngươi sẽ không mắc tội. Này, thầy trưởng tế A-ma-ria sẽ quản trị các vấn đề thuộc về CHÚA; Xê-ba-đia, con trai Ích-ma-ên, lãnh đạo bộ tộc Giu-đa, quản trị những việc thuộc về vua; một số người Lê-vi cũng sẽ là nhân viên phục vụ các ngươi. Hãy can đảm lên và làm việc, CHÚA sẽ ở cùng người thiện.” Dân Mô-áp Và Am-môn Tấn Công Vua Giê-hô-sa-phát Sau đó, người Mô-áp, Am-môn cùng với người Mao-nít gây chiến cùng vua Giê-hô-sa-phát. Người ta đến báo cho vua Giê-hô-sa-phát rằng, có đạo quân lớn từ Ê-đôm,20:2 Dịch theo một văn bản cổ. Nt: A-ram từ bên kia biển20:2 Tức là Biển Chết kéo đến, kìa, chúng đang ở tại Hát-sát-son Tha-ma, tức là Ên-ghê-đi. Vua Giê-hô-sa-phát sợ hãi; vua để lòng tìm kiếm CHÚA. Vua kêu gọi toàn thể Giu-đa kiêng ăn. Người Giu-đa tập họp lại tìm kiếm CHÚA; thật vậy, người Giu-đa từ khắp các thành đến tìm kiếm CHÚA. Vua Giê-hô-sa-phát đứng giữa hội chúng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, phía trước sân mới của đền thờ CHÚA; vua cầu nguyện: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng con, chẳng phải Ngài là Đức Chúa Trời trên trời, Ngài cai trị mọi vương quốc, mọi quốc gia sao? Quyền năng và sức mạnh ở trong tay Ngài, không ai địch nổi. Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, chẳng phải Ngài đã đánh đuổi cư dân xứ này khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và ban lãnh thổ cho dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ngài, đời đời sao? Họ đã sống trong xứ, xây một đền thánh cho danh Ngài. Họ nói: ‘Nếu chúng con gặp tai họa, gươm giáo, hình phạt, dịch lệ hay đói kém, chúng con sẽ đứng trước đền thờ này, trước sự hiện diện của Ngài vì danh Ngài ngự trong đền thờ này. Trong cơn khốn khổ chúng con sẽ cầu khẩn Ngài thì Ngài sẽ nghe và giải cứu chúng con.’ Giờ đây, kìa, người Am-môn, người Mô-áp và người vùng núi Sê-i-rơ là những dân mà khi người Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập Ngài đã không cho họ tấn công chúng nó nên họ đã tránh không hủy diệt chúng. Nhưng kìa, chúng báo trả chúng con như thế đó; chúng đến để đuổi chúng con ra khỏi sản nghiệp mà Ngài đã ban cho chúng con. Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, Ngài không trừng phạt chúng nó sao? Thật, chúng con không đủ sức chống lại đoàn quân đông đảo này đương tấn công chúng con và chúng con cũng không biết phải làm sao, nhưng mắt chúng con ngưỡng trông nơi Ngài.” Toàn thể người Giu-đa cùng vợ và con cái họ đều đứng trước mặt CHÚA. Bấy giờ, tại giữa hội chúng, thần của CHÚA đến trên Gia-ha-xi-ên, con trai Xa-cha-ri, cháu Bê-na-gia, chắt Giê-hi-ên, chít Ma-tha-nia, là người Lê-vi thuộc dòng dõi A-sáp. Người nói: “Tâu vua Giê-hô-sa-phát, toàn thể người Giu-đa, cư dân Giê-ru-sa-lem, hãy nghe đây, CHÚA phán như vầy: ‘Chính các ngươi chớ sợ hãi và hốt hoảng trước đám quân đông đảo này vì trận chiến này không phải của các ngươi nhưng của Đức Chúa Trời.’ Ngày mai hãy tiến lên tấn công chúng nó. Kìa, chúng đang leo lên đèo Xít, các ngươi sẽ thấy chúng nó ở cuối thung lũng, đối diện với sa mạc Giê-ru-ên. Các ngươi không phải chiến đấu trận này; hãy dàn quân và đứng yên, xem CHÚA, Đấng ở cùng các ngươi, sẽ giải cứu các ngươi. Hỡi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, chớ sợ hãi và hốt hoảng. Ngày mai, hãy đi ra, đối diện chúng, CHÚA ở cùng các ngươi.” Vua Giê-hô-sa-phát cúi mặt sát đất; toàn thể Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem quì xuống trước mặt CHÚA và thờ phượng CHÚA. Bấy giờ những người Lê-vi thuộc họ Kê-hát và Cô-rê đều đứng dậy và cất tiếng lớn ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Sáng sớm hôm sau, họ thức dậy và tiến ra sa mạc Thê-cô-a. Đang khi họ ra đi, vua Giê-hô-sa-phát đứng tại đó và nói: “Hãy nghe ta, hỡi Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, hãy tin tưởng CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi thì các ngươi sẽ đứng vững, hãy tin các tiên tri của Ngài thì các ngươi sẽ thành công.” Sau khi hội ý dân, vua lập những người ca ngợi CHÚA để ca ngợi sự uy nghi thánh khiết của CHÚA.20:21 Ctd: mặc y phục thánh uy nghi Những người này đi trước đoàn quân, hô: “Hãy cảm tạ CHÚA Vì tình yêu thương Ngài còn đến đời đời.” Khi họ bắt đầu hát và ca ngợi, CHÚA đặt phục binh đánh quân Am-môn, Mô-áp và người miền núi Sê-i-rơ đang tiến đánh Giu-đa; như vậy, chúng bị đánh bại. Quân Am-môn và Mô-áp nổi lên đánh cư dân vùng núi Sê-i-rơ để hủy diệt chúng, sau khi hủy diệt và quét sạch dân vùng núi Sê-i-rơ, chúng lại hủy diệt lẫn nhau. Khi người Giu-đa đến tháp canh nơi sa mạc; họ nhìn về phía đoàn quân đông đảo. Kìa, họ thấy xác chết nằm trên đất, không ai sống sót. Vua Giê-hô-sa-phát và đoàn quân tiến đến lấy chiến lợi phẩm. Người ta thấy rất nhiều khí cụ, xác chết và đồ vật quí giá; nhiều đến nỗi lấy không hết; người ta thu nhặt chiến lợi phẩm trong ba ngày vì rất nhiều. Đến ngày thứ tư họ tập họp tại thung lũng Bê-ra-ca; tại đó họ ca ngợi CHÚA. Vì thế chỗ này được gọi là thung lũng Bê-ra-ca cho đến ngày nay. Sau đó vua Giê-hô-sa-phát dẫn đầu cả đoàn quân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vui mừng trở về Giê-ru-sa-lem. CHÚA ban cho họ niềm vui mừng vì thắng được quân thù. Đoàn quân vào Giê-ru-sa-lem, tiến đến đền thờ CHÚA trong tiếng đàn hạc, đàn lia và tiếng kèn. Khi tất cả các vương quốc và các nước nghe thể nào CHÚA đã chiến đấu chống lại kẻ thù của Y-sơ-ra-ên thì đều khiếp sợ Đức Chúa Trời. Vậy vương quốc của vua Giê-hô-sa-phát được hòa bình vì Đức Chúa Trời của vua ban cho vua bình an bốn bề. Như thế, vua Giê-hô-sa-phát trị vì Giu-đa; vua lên ngôi lúc ba mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem trong hai mươi lăm năm; mẹ vua tên là A-xu-ba, con gái của Si-li. Vua đi theo đường lối của vua cha A-sa và không lầm lạc; vua hành động ngay thẳng trước mắt CHÚA. Tuy nhiên, những nơi cao chưa được dẹp sạch và dân chúng chưa để lòng theo Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Những chuyện khác của vua Giê-hô-sa-phát, từ đầu đến cuối, đều được chép trong truyện của Giê-hu, con trai Ha-na-ni và truyện ấy cũng được ghi chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên. Sau đó, Giê-hô-sa-phát, vua Giu-đa liên kết với A-cha-xia, vua Y-sơ-ra-ên, một vị vua gian ác. Hai vua liên kết với nhau đóng thương thuyền tại Ê-xi-ôn Ghê-be để đi Ta-rê-si. Bấy giờ, Ê-li-ê-se, con trai Đô-đa-va ở Ma-rê-xa, nói tiên tri chống lại vua Giê-hô-sa-phát rằng: “Vì vua đã liên kết với vua A-cha-xia nên CHÚA sẽ hủy phá công việc của vua.” Thật vậy, các tàu bị bể nát, không thể đi Ta-rê-si được. Cuộc Trị Vì Của Vua Giô-ram Vua Giê-hô-sa-phát an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất bên cạnh các tổ phụ trong thành Đa-vít. Giô-ram lên ngôi làm vua kế vị cha mình. Các con trai của vua Giê-hô-sa-phát, em vua Giô-ram là A-xa-ria, Giê-hi-ên, Xa-cha-ri, A-xa-ri-u, Mi-ca-ên, và Sê-pha-tia; tất cả những người này là con trai của Giê-hô-sa-phát, vua Y-sơ-ra-ên.21:2 Ở đây chỉ về nước Giu-đa Vua cha đã ban cho các hoàng tử nhiều vàng, bạc, tài sản quí giá và các thành kiên cố trong Giu-đa nhưng trao vương quốc cho Giô-ram vì người là con trưởng nam. Nhưng khi vua Giô-ram nắm vững quyền hành trong vương quốc của cha mình rồi, vua dùng gươm giết tất cả các hoàng tử em mình và một số thủ lãnh Y-sơ-ra-ên. Vua Giô-ram lên ngôi lúc ba mươi hai tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem tám năm. Người đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, giống như nhà A-háp đã làm, vì vua cưới con gái của vua A-háp làm vợ và làm điều ác trước mắt CHÚA. Dù vậy CHÚA không muốn hủy diệt nhà Đa-vít vì Ngài đã lập giao ước với vua Đa-vít; Ngài hứa rằng sẽ duy trì một ngọn đèn cho dòng dõi người đến muôn đời. Trong thời Giô-ram, xứ Ê-đôm nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa và lập một vua cho mình. Vì thế vua Giô-ram cùng các người chỉ huy và tất cả xe chiến mã xuất quân ra trận. Ban đêm vua tiến lên và tấn công quân Ê-đôm đang bao vây vua và các người chỉ huy xe chiến mã. Vậy, người Ê-đôm nổi lên chống lại sự cai trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Trong thời gian đó người Líp-na cũng nổi lên chống lại sự cai trị của vua Giô-ram vì vua đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Vua cũng lập các nơi cao trên các đồi núi Giu-đa, xui khiến dân cư Giê-ru-sa-lem thờ lạy tà thần và làm cho Giu-đa lầm lạc. Bấy giờ Tiên tri Ê-li gởi một lá thư cho vua nói rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của vua cha Đa-vít, phán như vầy: ‘Vì ngươi đã không đi theo đường lối của vua cha Giê-hô-sa-phát, cũng không theo đường lối của A-sa, vua Giu-đa, nhưng đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên, xui cho Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem thờ tà thần như nhà A-háp đã làm. Ngươi cũng đã giết các em trong nhà cha ngươi, là những người tốt hơn ngươi. Này, CHÚA sẽ giáng họa lớn xuống dân ngươi, các vợ, con cái ngươi và mọi tài sản ngươi. Còn chính ngươi sẽ bị đau ruột nặng và dai dẳng cho đến khi bị sổ ruột ra.’ ” CHÚA cũng thúc đẩy người Phi-li-tin và người Ả-rập ở cạnh biên giới người Ê-thi-ô-bi, nổi lên chống lại vua Giô-ram. Chúng tấn công và chiếm Giu-đa; cướp lấy tất cả tài sản trong cung vua, bắt đi các hoàng tử cùng vương phi ngoại trừ Giô-a-cha,21:17 Cũng gọi là A-cha-xia con trai út của vua. Sau các việc này, CHÚA làm cho vua bị bệnh nan y trong ruột. Trong suốt một thời gian, đến cuối năm thứ hai, vua bị sổ ruột vì bệnh và chết rất đau đớn. Dân chúng không đốt lửa cho vua như họ đã làm cho vua cha. Vua Giô-ram lên ngôi lúc ba mươi hai tuổi, cai trị tại Giê-ru-sa-lem tám năm rồi qua đời nhưng không ai thương tiếc. Người được chôn trong thành Đa-vít nhưng không được chôn nơi lăng tẩm của các vua. A-cha-xia Trị Vì Giu-đa Dân cư Giê-ru-sa-lem lập A-cha-xia, con trai út của vua Giô-ram lên ngôi kế vị vì các con trai lớn của vua đã bị quân xâm lược cùng với những người Ả-rập vào trại quân giết sạch. Như vậy A-cha-xia, con trai vua Giô-ram lên ngôi vua cai trị Giu-đa. A-cha-xia được hai mươi hai tuổi22:2 Các văn bản Hy Lạp và Syriac: 22 tuổi khi lên ngôi vua; người cai trị một năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ vua tên là A-tha-li, con gái của Om-ri. Vua cũng đi theo đường lối nhà A-háp vì mẹ vua xúi dục vua làm điều ác. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA như nhà A-háp đã làm, vì sau khi vua cha qua đời, họ làm cố vấn cho vua khiến vua phải bị hủy diệt. Vua cũng nghe theo lời họ đi cùng với vua Giê-hô-ram,22:5 Cũng gọi là Giô-ram con trai A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, tham chiến tại Ra-mốt Ga-la-át chống lại Ha-xa-ên, vua Sy-ri. Quân Sy-ri làm cho vua Giô-ram bị thương. Người trở về Gít-rê-ên để chữa trị vết thương mà vua đã mang trong trận chiến với Ha-xa-ên, vua Sy-ri tại Ra-ma. Vua A-cha-xia, con trai Giô-ram, vua Giu-đa đi xuống Ghít-rê-ên thăm vua Giê-hô-ram, con trai A-háp vì người bị thương. Việc vua A-cha-xia đi thăm Giô-ram và bị hủy diệt là do ý Đức Chúa Trời. Khi đến nơi, vua A-cha-xia cùng vua Giê-hô-ram đi ra đánh Giê-hu, con trai Nim-si, là người CHÚA đã xức dầu để hủy diệt nhà A-háp. Đang khi tiêu diệt nhà A-háp, Giê-hu gặp những viên chức Giu-đa và những người họ hàng22:8 Nt: Các con cái của anh em A-cha-xia; nhưng những người này còn quá nhỏ nên “họ hàng” đang làm quan có lý hơn tháp tùng vua A-cha-xia; người cũng giết họ luôn. Người cũng cho truy nã vua A-cha-xia và bắt được vua A-cha-xia đang ẩn trốn tại Sa-ma-ri. Người ta đem vua đến cho Giê-hu và người giết vua đi nhưng người ta chôn cất vua vì cho rằng vua là con cháu vua Giê-hô-sa-phát, người hết lòng tìm kiếm CHÚA. Thế là nhà A-cha-xia không còn ai cầm quyền trong nước. Bấy giờ, A-tha-li, mẹ vua A-cha-xia, thấy con trai mình đã chết; bà ra tay tiêu diệt tất cả dòng dõi hoàng gia Giu-đa. Nhưng công chúa Giô-sa-bát bồng Giô-ách, con trai vua A-cha-xia, đem trốn khỏi các hoàng tử sắp bị giết; bà giấu cậu bé và người vú nuôi trong phòng ngủ. Như thế vì Giô-sa-bát, con gái vua Giô-ram, em gái vua A-cha-xia, vợ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, giấu cậu bé nên bà A-tha-li không giết được. Hoàng tử trốn với họ sáu năm trong đền thờ Đức Chúa Trời trong khi bà A-tha-li cai trị đất nước. Giê-hô-gia-đa Lập Giô-ách Lên Ngôi Vua Giu-đa Vào năm thứ bảy Giê-hô-gia-đa lấy can đảm kết ước với những vị chỉ huy trăm quân sau đây: A-xa-ria, con trai Giê-rô-ham, Ích-ma-ên, con trai Giô-ha-nan, A-xa-ria, con trai Ô-bết, Ma-a-sê-gia, con trai A-đa-gia, và Ê-li-sa-phát, con trai Xiếc-ri. Những người này đi vòng khắp Giu-đa, tụ họp người Lê-vi từ khắp các thành trong Giu-đa và gia trưởng Y-sơ-ra-ên, rồi họ đến Giê-ru-sa-lem. Cả hội chúng kết ước với vua tại đền thờ Đức Chúa Trời. Bấy giờ Giê-hô-gia-đa nói với họ: “Kìa, con của vua sẽ cai trị như CHÚA đã hứa cùng dòng dõi vua Đa-vít. Bây giờ đây là điều các ngươi phải làm, một phần ba các ngươi, là các thầy tế lễ và người Lê-vi có nhiệm vụ vào ngày Sa-bát, sẽ canh gác các cửa. Một phần ba canh gác cung vua; một phần ba tại cổng Nền Móng, còn tất cả dân chúng ở tại sân đền thờ CHÚA. Không ai được vào đền thờ CHÚA ngoài các thầy tế lễ và người Lê-vi đang có phận sự, họ được vào vì họ đã được thanh tẩy, còn tất cả dân chúng phải tuân theo qui định của CHÚA. Những người Lê-vi sẽ đứng quanh vua, mỗi người tay cầm vũ khí; ai vào đền thờ sẽ bị giết; hãy theo bảo vệ vua khi người đi ra, đi vào.” Những người Lê-vi và tất cả Giu-đa đều thi hành đúng như thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa truyền. Mỗi người giữ người của mình lại, dù là người đang có phận sự vào ngày Sa-bát hay hết phận sự, vì thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa không cho các ban mãn phận sự ra về. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phát cho các vị chỉ huy trăm quân những giáo, khiên lớn và nhỏ của vua Đa-vít để trong đền thờ Đức Chúa Trời. Ông đặt toàn thể lực lượng, mỗi người tay cầm vũ khí, đứng chung quanh vua, từ phía nam đến phía bắc đền thờ, gần nơi bàn thờ và đền thờ. Người ta đem hoàng tử ra, đội vương miện và trao cho người tờ giao ước. Bấy giờ thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa và các con trai người xức dầu phong vương cho hoàng tử và hô to: Đức vua vạn tuế. Khi A-tha-li nghe tiếng dân chúng chạy và chúc tụng vua bà đi đến chỗ dân chúng tại đền thờ CHÚA. Bà nhìn, kìa, vua đứng trên bục tại cổng vào; các vị chỉ huy và những người thổi kèn đứng bên cạnh vua. Cả dân chúng trong xứ đều vui mừng, thổi kèn; những ca sĩ có nhạc cụ phụ họa hướng dẫn ca ngợi. Bà A-tha-li xé áo mình và la lên: “Phản tặc, phản tặc.” Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa phái những người chỉ huy trăm quân, là những người đang chỉ huy đoàn quân, đem bà ta ra khỏi khuôn viên, ai theo bà ấy sẽ bị giết bằng gươm; vì thầy tế lễ nói rằng không nên giết bà trong đền thờ CHÚA. Thế là họ bắt được bà khi bà đến cổng Ngựa của hoàng cung và người ta giết bà tại đó. Bấy giờ Giê-hô-gia-đa lập giao ước giữa người với cả dân chúng và với vua để họ làm dân của CHÚA. Cả dân chúng kéo đến đền thờ Ba-anh; họ phá hủy đền thờ và bàn thờ; đập nát tượng thần và giết Ma-than, thầy tế lễ của Ba-anh, ngay trước bàn thờ. Giê-hô-gia-đa cũng giao việc coi sóc đền thờ CHÚA trong tay các thầy tế lễ, tức là những người Lê-vi mà vua Đa-vít đã ủy nhiệm lo việc đền thờ CHÚA để dâng tế lễ thiêu cho CHÚA như đã chép trong Kinh Luật Môi-se cùng với sự vui mừng ca hát như vua Đa-vít đã định. Người cũng đặt người giữ các cổng đền thờ CHÚA, không cho người bị ô uế bất cứ vì lý do gì vào đền. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa cùng những người chỉ huy trăm quân, những quí tộc, các nhà lãnh đạo dân và toàn dân trong xứ rước vua ra khỏi đền thờ CHÚA, đi qua cửa Thượng vào hoàng cung và đặt vua ngồi lên ngai. Như thế toàn dân trong nước đều vui mừng, thành đô yên tĩnh vì bà A-tha-li đã bị giết bằng gươm. Vua Giô-ách Tu Sửa Đền Thờ Giô-ách được bảy tuổi khi lên ngôi làm vua, người cai trị tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm; mẹ vua tên là Xi-bia, quê ở Bê-e-sê-ba. Vua Giô-ách làm điều ngay thẳng trước mắt CHÚA trong suốt thời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Giê-hô-gia-đa cưới cho vua hai vợ và người được các con trai con gái. Sau đó vua Giô-ách định tu bổ đền thờ CHÚA. Vua triệu tập tất cả những thầy tế lễ và người Lê-vi, bảo họ: “Hãy đi đến mọi người Y-sơ-ra-ên tại các thành Giu-đa đặng thu tiền thuế hằng năm để tu sửa đền thờ Đức Chúa Trời. Các ngươi phải thi hành việc này ngay.” Nhưng những người Lê-vi không thi hành ngay. Vua mời thầy thượng tế Giê-hô-gia-đa đến và bảo người: “Tại sao ngươi không đòi hỏi người Lê-vi đem tiền thuế từ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem nộp cho Trại Chứng Cớ như Môi-se, tôi tớ của CHÚA và hội chúng Y-sơ-ra-ên đã qui định?” Vì các con cái của bà A-tha-li gian ác kia đã vào cướp đền thờ Đức Chúa Trời, lại còn lấy tất cả những vật thánh trong đền thờ CHÚA dâng cho thần Ba-anh. Vua ra lệnh làm một cái rương, đặt tại phía ngoài cổng vào đền thờ CHÚA. Bấy giờ người ta kêu gọi cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem hãy đem dâng tiền thuế cho CHÚA như Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã ấn định cho Y-sơ-ra-ên trong sa mạc. Tất cả những người lãnh đạo và toàn dân đều vui vẻ đem tiền dâng bỏ vào rương đến nỗi đầy rương. Mỗi khi người Lê-vi đem rương vào cho nhân viên của vua và họ thấy có nhiều tiền thì thư ký của vua và nhân viên của thầy thượng tế sẽ đến đổ tiền trong rương ra và đem rương để lại chỗ cũ. Mỗi ngày họ đều làm như vậy và thu được rất nhiều tiền. Vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa giao tiền cho người phụ trách công việc đền thờ CHÚA. Người ta mướn thợ nề, thợ mộc để tân trang đền thờ CHÚA và cũng mướn thợ sắt, thợ đồng sửa chữa đền thờ CHÚA. Những người phụ trách bắt đầu làm việc và công việc tiến triển tốt đẹp dưới sự điều khiển của họ. Người ta trùng tu đền thờ CHÚA theo kiểu mẫu nguyên thủy và làm cho vững chắc hơn. Sau khi hoàn thành, người ta đem số bạc còn lại cho vua và thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Số bạc ấy được dùng làm các vật dụng cho đền thờ CHÚA, tức là những vật dụng cho việc phụng vụ, cho tế lễ thiêu, những vá múc và vật dụng bằng vàng bằng bạc. Suốt đời thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người ta luôn luôn dâng tế lễ thiêu trong đền thờ CHÚA. Thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa sống đến già, tuổi cao; người qua đời lúc một trăm ba mươi tuổi. Người ta chôn người trong thành Đa-vít, cùng với các vua vì người đã làm việc tốt lành cho Y-sơ-ra-ên, cho Đức Chúa Trời và đền thờ Ngài. Sau khi Giê-hô-gia-đa qua đời, các người lãnh đạo Giu-đa đến chầu vua; bấy giờ vua nghe theo lời họ. Chúng từ bỏ đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, đi phụng vụ trụ A-sê-ra và các thần tượng. Vì tội này cơn thịnh nộ của Chúa đổ xuống Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ngài sai các tiên tri đến để đem họ trở về với CHÚA và cảnh cáo họ nhưng họ không chịu nghe. Thần của Đức Chúa Trời đến với Xa-cha-ri, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, người đứng trước dân chúng và nói: “Đức Chúa Trời phán như vầy: ‘Tại sao các ngươi không vâng theo các điều răn của CHÚA, vì thế các ngươi sẽ không thịnh vượng được. Vì các ngươi đã từ bỏ CHÚA nên Ngài cũng từ bỏ các ngươi.’ ” Nhưng họ âm mưu chống lại ông và do lệnh vua họ ném đá giết ông tại sân đền thờ CHÚA. Vậy, vua Giô-ách không nhớ đến sự nhân từ của Giê-hô-gia-đa, cha của Xa-cha-ri, đối với vua mà giết con trai người đi. Khi Xa-cha-ri sắp chết đã nói: “Xin CHÚA thấy điều này và báo trả.” Vào khoảng cuối năm, quân Sy-ri kéo đến tấn công vua Giô-ách. Chúng xâm chiếm Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, tàn sát tất cả những người lãnh đạo trong dân, chuyên chở mọi chiến lợi phẩm về cho vua của họ ở Đa-mách. Mặc dù quân Sy-ri chỉ có ít người kéo đến, nhưng CHÚA đã trao đoàn quân rất đông đảo vào tay chúng vì họ đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình. Quân Sy-ri đã trừng trị Giô-ách. Khi quân Sy-ri rút lui, chúng bỏ vua lại, đang bị thương nặng; các thuộc hạ âm mưu chống vua vì nợ máu của các con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa; họ giết vua tại trên giường. Vua chết và được chôn cất trong thành Đa-vít nhưng không được chôn tại các lăng tẩm của các vua. Những người âm mưu chống lại vua là Xa-bát, con trai bà Si-mê-át, người Am-môn, và Giô-xa-bát, con trai Sim-rít, một phụ nữ Mô-áp. Câu chuyện về các con của vua, nhiều lời công bố chống lại vua và việc trùng tu đền thờ Đức Chúa Trời đều được ghi trong các phần chú thích trong các sách của các vua. A-ma-xia, con trai vua lên ngôi kế vị. Cuộc Trị Vì Của Vua A-ma-xia Khi lên ngôi, vua A-ma-xia được hai mươi lăm tuổi; vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem; mẹ người tên Giô-a-đan, quê ở Giê-ru-sa-lem. Người làm việc thiện trước mắt CHÚA nhưng không hết lòng. Khi đã nắm vững vương quốc, vua hành quyết những cận thần đã mưu sát vua cha. Nhưng vua không giết các con trai của họ theo như Kinh Luật Môi-se đã ghi. Trong Kinh Luật CHÚA phán: “Chớ giết cha vì tội của con cũng đừng giết con vì tội của cha; nhưng mỗi người sẽ chết vì tội của mình.”25:4 Phục 24:16 Vua A-ma-xia triệu tập người Giu-đa lại và lập những người chỉ huy ngàn quân và trăm quân theo gia đình cho cả Giu-đa và Bên-gia-min. Vua cũng kiểm kê được 300,000 người từ hai mươi tuổi trở lên, biết sử dụng khiên và giáo, sẵn sàng nhập ngũ. Vua thuê 100,000 quân thiện chiến từ Y-sơ-ra-ên với giá một trăm ta-lâng bạc.25:6 Khoảng 3,400kg Nhưng một người của Đức Chúa Trời đến nói với vua: “Tâu đức vua, xin đừng để đoàn quân Y-sơ-ra-ên đi với vua vì CHÚA không ở cùng quân Y-sơ-ra-ên và cũng không ở với tất cả những người Ép-ra-im này. Nhưng nếu vua cứ đi và dù chiến đấu anh dũng nơi trận mạc thì Đức Chúa Trời cũng để cho vua thất bại trước quân thù vì Đức Chúa Trời có quyền giúp sức hay đánh bại.” Vua A-ma-xia hỏi người của Đức Chúa Trời, “Còn một trăm ta-lâng bạc của ta trả cho quân Y-sơ-ra-ên thì sao?” Người của Đức Chúa Trời trả lời: “CHÚA có thể cho vua nhiều hơn thế nữa.” Bấy giờ vua A-ma-xia giải tán đoàn quân đã đến với vua từ Ép-ra-im và cho họ ra về. Họ rất tức giận Giu-đa và trở về xứ lòng đầy phẫn nộ. Vua A-ma-xia lấy can đảm dẫn quân mình tiến ra thung lũng Muối; tại đó vua giết 10,000 quân Sê-i-rơ. Quân Giu-đa cũng bắt sống 10,000 người; họ đem chúng lên trên đỉnh núi đá và ném chúng xuống hố sâu; tất cả đều chết tan xác. Nhưng đoàn quân mà vua A-ma-xia trả về, không cho tham chiến với vua, đã đánh phá các thành Giu-đa từ Sa-ma-ri đến Bết Hô-rôn; chúng giết 3,000 người trong các thành ấy và cướp đi rất nhiều đồ vật. Sau khi tàn sát người Ê-đôm, vua A-ma-xia trở về, mang theo các thần của người Sê-i-rơ và lập làm thần của mình. Vua thờ lạy các thần này và dâng tế lễ cho chúng. CHÚA nổi giận cùng vua A-ma-xia; Ngài sai một tiên tri đến nói với vua: “Tại sao ngươi cầu khẩn các thần của dân này, là những thần không cứu nổi họ khỏi tay ngươi?” Khi tiên tri đang nói, vua bảo: “Chúng ta có cử ngươi làm cố vấn cho vua không? Đừng nói nữa, ngươi muốn bị đánh chết sao?” Tiên tri không nói nữa nhưng lại bảo: “Tôi biết rằng Đức Chúa Trời định hủy diệt vua vì vua đã làm như vậy và không nghe lời khuyên của tôi.” Sau khi thảo luận, A-ma-xia, vua Giu-đa sai sứ đến vua Giô-ách, con trai Giô-a-cha, cháu Giê-hu, vua Y-sơ-ra-ên, nói rằng: “Hãy đến đây, chúng ta hãy đối diện nhau.” Giô-ách vua Y-sơ-ra-ên trả lời A-ma-xia, vua Giu-đa: “Bụi gai ở Li-ban sai người đến nói với cây bá hương Li-ban rằng: ‘Xin gả con gái ngài cho con trai tôi;’ thế rồi một thú dữ ngoài đồng ở Li-ban đi ngang qua chà đạp bụi gai. Ngươi tự bảo, kìa ta đã đánh bại Ê-đôm, rồi ngươi tự cao tự đại. Này, hãy ở nhà đi, sao ngươi muốn chuốc lấy tai họa để ngươi và cả Giu-đa phải sụp đổ?” Nhưng vua A-ma-xia không chịu nghe vì việc này đến từ Đức Chúa Trời, Ngài muốn trao vua vào tay chúng vì vua đã cầu khẩn các thần của Ê-đôm. Sau đó Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên tiến lên; vua và A-ma-xia, vua Giu-đa giao chiến với nhau tại Bết Sê-mết thuộc Giu-đa. Quân Giu-đa bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại và bỏ chạy, mỗi người bỏ chạy về nhà. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên bắt sống được A-ma-xia, vua Giu-đa, con trai Giô-ách, cháu Giô-a-cha, tại Bết Sê-mết và điệu về Giê-ru-sa-lem. Vua cũng phá vách thành Giê-ru-sa-lem từ cổng Ép-ra-im đến cổng Góc, một khoảng chừng bốn trăm am-ma.25:23 Khoảng 180m Vua cướp lấy tất cả vàng, bạc, các vật dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời do Ô-bết Ê-đôm coi giữ cùng kho châu báu trong cung vua và một số tù binh rồi trở về Sa-ma-ri. A-ma-xia, con trai Giô-ách, vua Giu-đa sống thêm được mười lăm năm sau khi Giô-ách, con trai Giô-a-cha, vua Y-sơ-ra-ên qua đời. Các công việc khác của vua A-ma-xia, từ đầu đến cuối, đã không được chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đó sao? Từ khi vua A-ma-xia từ bỏ không theo CHÚA, người ta cũng âm mưu chống lại vua tại Giê-ru-sa-lem. Sau đó vua phải trốn qua La-ki nhưng người ta đuổi theo đến La-ki và giết vua tại đó. Người ta cho ngựa chở vua về và chôn cất vua bên cạnh tổ tiên trong thành Giu-đa. Cuộc Trị Vì Của Ô-xia Toàn dân Giu-đa tôn Ô-xia, lúc ấy mới mười sáu tuổi, lên ngôi kế vị vua cha A-ma-xia. Vua tái thiết Ê-lốt và khôi phục thành này cho Giu-đa sau khi vua cha an giấc với các tổ phụ. Khi lên ngôi vua Ô-xia mới mười sáu tuổi, người trị vì năm mươi hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giê-cô-lia, quê ở Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như mọi điều thiện vua cha đã làm. Vua tìm kiếm Đức Chúa Trời suốt thời Xa-cha-ri, người dạy vua kính sợ26:5 MT: khải tượng; dịch theo một số văn bản cổ và các bản dịch cổ Đức Chúa Trời. Bao lâu vua tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời ban cho vua thành công. Vua đi ra giao chiến với người Phi-li-tin, phá đổ tường thành Gát, tường thành Giáp-nê và tường thành Ách-đốt; vua tái thiết thành Ách-đốt và các thành giữa vòng người Phi-li-tin. Đức Chúa Trời giúp đỡ vua chống lại người Phi-li-tin, người Ả-rập sống ở Gu-rơ Ba-anh và người Ma-ôn. Người Am-môn dâng cống lễ cho vua Ô-xia; danh tiếng người đồn đến tận biên giới Ai-cập vì vua trở nên rất hùng cường. Vua Ô-xia cũng xây các tháp canh trong Giê-ru-sa-lem tại cổng Góc, cổng Thung Lũng và góc thành; vua củng cố cho kiên cố hơn. Vua xây các tháp canh trong sa mạc, đào nhiều hồ chứa nước vì vua có nhiều đàn súc vật trên các đồi, dưới đồng bằng; vua cũng có nhiều nông dân và người làm vườn nho trên các vùng đồi núi và vùng đất phì nhiêu vì vua thích đất đai. Vua Ô-xia có một quân đội thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu, được chia thành đoàn theo sự cố vấn của quan thơ ký Giê-hi-ên và Ma-a-sê-gia; đặt dưới sự chỉ huy của Ha-na-nia, một trong các tướng lãnh của vua. Tổng số các trưởng tộc, tức những dũng sĩ là 2,600 người. Họ lãnh đạo một quân đội 307,500 người thiện chiến, một lực lượng hùng mạnh để giúp vua chống lại mọi kẻ thù. Vua Ô-xia trang bị cho tất cả quân đội những khiên, giáo, mũ chiến, áo giáp, cung và dàn phóng đá. Tại Giê-ru-sa-lem vua làm những máy tinh xảo, đặt trên các tháp canh và góc thành để bắn tên và bắn các tảng đá lớn. Danh tiếng người vang ra rất xa vì người được Chúa giúp đỡ cách lạ lùng cho đến khi trở nên cường thịnh. Nhưng khi cường thịnh, vua trở nên kiêu ngạo đến nỗi làm điều bại hoại. Vua xúc phạm đến CHÚA, Đức Chúa Trời mình vì vua vào đền thờ CHÚA, dâng hương trên bàn thờ dâng hương. Thầy tế lễ A-xa-ria và tám mươi thầy tế lễ can đảm của CHÚA theo sau vua. Họ đứng lên cản vua và nói: “Vua không được phép dâng hương cho CHÚA vì chỉ có những thầy tế lễ dòng dõi A-rôn, là những người được thánh hiến để dâng hương; xin vua hãy rời khỏi đền thánh vì vua đã vi phạm, vua sẽ không được vinh dự gì từ CHÚA, là Đức Chúa Trời đâu.” Vua Ô-xia, tay cầm lư hương sẵn sàng để dâng hương, trở nên tức giận. Đang khi vua nổi giận cùng các thầy tế lễ, phung xuất hiện trên trán vua ngay trước mặt các thầy tế lễ, bên cạnh bàn thờ dâng hương trong đền thờ CHÚA. Khi thượng tế A-xa-ria và tất cả các thầy tế lễ nhìn và thấy phung trên trán vua, họ vội vàng đưa vua ra khỏi nơi đó; chính vua cũng muốn rời khỏi đó vì CHÚA đã phạt vua. Vua Ô-xia bị phung cho đến ngày vua qua đời; vua sống trong nhà riêng dành cho người phung và bị cấm vào đền thờ CHÚA. Thái tử Giô-tham coi sóc hoàng cung và cai trị dân trong nước. Những công việc khác của vua Ô-xia, từ đầu đến cuối, được tiên tri I-sa, con trai A-mốt ghi chép. Vua Ô-xia an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất tại cánh đồng lăng tẩm các vua gần các tổ phụ vì người ta nói rằng vua bị phung. Thái tử Giô-tham lên ngôi kế vị vua. Cuộc Trị Vì Của Giô-tham Giô-tham lên ngôi khi được hai mươi lăm tuổi; người cai trị mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ người tên là Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như mọi điều vua cha Ô-xia đã làm nhưng không vào đền thờ CHÚA, còn dân chúng vẫn bại hoại. Vua xây dựng cổng trên của đền thờ CHÚA và có nhiều công trình xây cất trên tường thành Ô-phên. Vua xây dựng các thành trong miền đồi núi Giu-đa và các đồn, tháp canh trong vùng rừng rậm. Vua giao chiến với vua dân A-môn và chiến thắng nên họ phải triều cống vua trong năm đó một trăm ta-lâng bạc,27:5 khoảng 3.4 tấn mười ngàn cô-rê27:5 1 cô-rê = 220l lúa mì và mười ngàn cô-rê lúa mạch; năm thứ hai và thứ ba cũng vậy. Vua Giô-tham trở nên hùng mạnh vì vua trung tín trong đường lối mình trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Các công việc khác, những cuộc chiến tranh và đường lối của vua Giô-tham đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua lên ngôi vào năm hai mươi lăm tuổi và cai trị tại Giê-ru-sa-lem mười sáu năm. Vua Giô-tham an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất trong thành Đa-vít. Thái tử A-cha lên ngôi kế vị. Cuộc Trị Vì Của A-cha A-cha được hai mươi tuổi khi người lên ngôi vua; người trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem nhưng vua không làm điều thiện trước mắt CHÚA như Đa-vít, tổ phụ người. Vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên và cũng đúc tượng cho thần Ba-anh. Vua dâng hương trong thung lũng Ben Hi-nôm, dâng con cái mình để thiêu trong lửa theo những cách thức ghê tởm của các nước mà CHÚA đã trục xuất khỏi trước mắt con cái Y-sơ-ra-ên. Vua dâng tế lễ, dâng hương tại những nơi cao, trên các đỉnh đồi và dưới mọi tàng cây xanh. Vì thế CHÚA, Đức Chúa Trời đã trao vua vào tay vua Sy-ri; quân Sy-ri đánh bại vua và bắt rất nhiều tù binh đem về Đa-mách. Vua cũng bị thất bại dưới tay vua Y-sơ-ra-ên và vua này gây cho vua tổn thất nặng nề. Trong một ngày Phê-ca, con trai Rê-ma-lia đã giết chết 120,000 quân, toàn là quân thiện chiến tại Giu-đa; vì họ đã từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Xiếc-ri, một dũng sĩ của Ép-ra-im cũng giết hoàng tử Ma-a-sê-gia, A-ri-kham, quan nội cung và Ên-ca-na, quan tể tướng. Quân Y-sơ-ra-ên bắt 200,000 người trong số các anh em họ làm tù binh, cả đàn bà, con trai, con gái; họ cũng lấy rất nhiều chiến lợi phẩm đem về Sa-ma-ri. Có một tiên tri của CHÚA tên Ô-đết tại đó; người đi ra đón đoàn quân trở về Sa-ma-ri và nói: “Này, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã giận Giu-đa nên Ngài trao chúng vào tay các ngươi, nhưng các ngươi đã sát hại họ trong cơn hận thù thấu đến trời. Giờ đây các ngươi định bắt những người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem làm tôi trai, tớ gái cho các ngươi sao? Còn chính các ngươi, các ngươi không phạm tội cùng CHÚA, Đức Chúa Trời mình sao? Bây giờ, hãy nghe ta, thả tất cả những tù binh mà các ngươi đã bắt từ anh em mình vì cơn thịnh nộ dữ dội của CHÚA đang ở trên các ngươi.” Lúc ấy, một số lãnh đạo Ép-ra-im, A-xa-ria, con trai Giô-ha-nan, Bê-rê-kia, con trai Mê-xi-lê-mốt, Ê-xê-chia, con trai Sa-lum và A-ma-sa, con trai Hát-lai, đối diện với những người từ chiến trận trở về. Những người này nói với họ: “Anh em không được đem các tù binh về đây vì chúng ta sẽ mắc tội với CHÚA; anh em định thêm tội lỗi cho chúng ta sao? Chúng ta đã mắc nhiều tội lỗi và cơn thịnh nộ dữ dội đang ở trên Y-sơ-ra-ên.” Như thế quân lính trả lại tù binh và chiến lợi phẩm họ cướp được tại trước mặt các quan và toàn thể hội chúng. Bấy giờ những người kể trên đứng dậy, tiếp nhận những tù binh; lấy y phục từ các chiến lợi phẩm mặc cho những người trần truồng, cung cấp giày dép, đồ ăn, thức uống và dầu xức cho họ; những người yếu đuối được để trên lưng lừa. Như thế những người này dẫn chúng về với anh em mình tại Giê-ri-cô, thành Cây Chà Là; còn họ thì trở về Sa-ma-ri. Trong lúc đó vua A-cha sai sứ cầu viện vua A-si-ri. Quân Ê-đôm lại đến tấn công Giu-đa và bắt tù binh đi. Quân Phi-li-tin đánh phá các thành thuộc vùng Sô-phê-la và Nê-ghép của Giu-đa; chúng chiếm các thành Bết-sê-mết, A-gia-lôn, Ghê-đê-rốt, Sô-cô và các vùng phụ cận, Tim-na và các vùng phụ cận, Ghim-sô và các vùng phụ cận; rồi chúng cư ngụ tại đó. CHÚA đã hạ Giu-đa xuống vì cớ vua A-cha, vua của người Y-sơ-ra-ên28:19 Ở đây chỉ về người Do Thái ở miền nam, tức nước Giu-đa. Một vài văn bản cổ và bản dịch cổ: Giu-đa vì vua hành động gian ác trong Giu-đa và vô cùng bất trung với CHÚA. Tiếc-lác Phi-nê-se, vua A-si-ri kéo đến áp bức vua thay vì giúp đỡ người. Vua A-cha lấy đồ trong đền thờ CHÚA, trong hoàng cung và của các hoàng tử dâng cho vua A-si-ri nhưng cũng chẳng ích gì. Trong lúc hoạn nạn, chính vua A-cha lại càng thêm bất trung với CHÚA. Vua dâng tế lễ cho các thần của thành Đa-mách, là dân đã đánh bại vua vì vua nghĩ rằng các thần này đã giúp các vua Sy-ri tất nhiên cũng sẽ phù hộ vua khi vua dâng tế lễ cho chúng. Nhưng chính các thần ấy là duyên cớ làm cho vua và cả Y-sơ-ra-ên sa ngã. Vua A-cha thu các vật dụng trong đền thờ Đức Chúa Trời, đập nát các đồ ấy và đóng cửa đền thờ CHÚA. Rồi vua lập các bàn thờ khắp mọi ngõ ngách của Giê-ru-sa-lem. Vua lập các nơi cao trong mỗi thành của Giu-đa và dâng hương tại đó cho các thần khác; như thế vua chọc giận CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ người. Những công việc khác của vua cũng như các đường lối người từ đầu đến cuối đều được chép trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Vua A-cha an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất trong thành Giê-ru-sa-lem nhưng không được chôn trong các lăng tẩm của các vua Y-sơ-ra-ên. Thái tử Ê-xê-chia lên ngôi kế vị. Cuộc Trị Vì Của Ê-xê-chia Vua Ê-xê-chia lên ngôi lúc hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm; mẹ vua tên A-bi-gia, con gái của Xa-cha-ri. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA như vua Đa-vít, tổ phụ người đã làm. Tháng đầu tiên của năm thứ nhất dưới triều vua Ê-xê-chia, vua cho mở các cửa đền thờ CHÚA và sửa chữa chúng. Vua triệu tập các thầy tế lễ và người Lê-vi, tập họp họ lại tại quảng trường phía đông. Vua nói với họ: “Hỡi những người Lê-vi, hãy nghe ta. Các ngươi hãy thanh tẩy chính mình để thánh hiến đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi. Hãy thanh tẩy mọi điều dơ bẩn khỏi thánh điện. Vì cha ông chúng ta đã bất trung, đã làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta; họ đã từ bỏ Ngài, ngoảnh mặt khỏi nơi ngự của Ngài và xây lưng lại cùng Ngài. Họ cũng đóng các cửa hành lang, tắt các đèn, không đốt hương, không dâng tế lễ thiêu nơi đền thánh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Cho nên CHÚA đã nổi giận cùng Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ngài làm cho họ thành mối sợ hãi, kinh hoàng và mục tiêu chế nhạo như chính mắt các ngươi đã thấy. Này, vì thế mà cha ông chúng ta đã ngã quị vì gươm; vợ, con trai, con gái chúng ta bị bắt làm tù binh. Giờ đây, ta quyết tâm lập giao ước với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để Ngài nguôi cơn thịnh nộ đối với chúng ta. Hỡi các con, bây giờ, chớ chểnh mảng nhiệm vụ nữa vì CHÚA đã chọn các con để đứng trước mặt Ngài, để phục vụ Ngài, làm tôi tớ Ngài và dâng hương cho Ngài.” Những người Lê-vi đứng lên hành động; trong tông Kê-át có Ma-hát, con trai của A-ma-sai; Giô-ên, con trai của A-sa-ria; trong tông Mê-ra-ri có Kích, con trai của Áp-đi, A-xa-ria, con trai của Giê-ha-lê-le; trong tông Ghẹt-sôn có Giô-a, con trai của Xim-ma, Ê-đen, con trai của Giô-a; trong tông Ê-lít-sa-phan có Sim-ri và Giê-i-ên; trong tông A-sáp có Xa-cha-ri và Ma-tha-nia; trong tông Hê-man có Giê-hi-ên và Si-mê-i; trong tông Giê-đu-thun có Se-ma-gia và U-xi-ên. Những người này triệu tập anh em của mình lại, thanh tẩy chính họ, rồi theo lời CHÚA và theo lệnh vua, tiến hành việc thanh tẩy đền thờ CHÚA. Các thầy tế lễ vào phía trong của đền thờ CHÚA để thanh tẩy; họ lấy tất cả những gì ô uế trong đền thờ CHÚA, đem ra sân ngoài đền thờ, rồi người Lê-vi đem bỏ ngoài thung lũng Kít-rôn. Ngày một tháng Giêng họ bắt đầu thanh tẩy đền CHÚA, đến ngày thứ tám họ thanh tẩy đến hành lang đền CHÚA. Họ làm thêm tám ngày nữa, đến ngày thứ mười sáu thì hoàn thành. Các thầy tế lễ vào cung và trình vua Ê-xê-chia: “Chúng tôi đã thanh tẩy toàn thể đền thờ CHÚA, bàn thờ dâng tế lễ thiêu và tất cả vật dụng phụ, bàn dâng bánh thánh và tất cả vật dụng phụ; cũng như tất cả các vật dụng mà dưới thời vua A-cha, khi người bất trung, đã bỏ đi thì nay chúng tôi đã sửa soạn lại và thánh hiến. Kìa, tất cả đều sẵn sàng trước bàn thờ CHÚA.” Vua Ê-xê-chia thức dậy sớm, triệu tập các quan trong thành và đi lên đền thờ CHÚA. Họ đem theo bảy con bò đực, bảy con chiên đực, bảy con chiên con và bảy con dê làm tế lễ chuộc tội cho vương quốc, cho đền thánh và cho Giu-đa. Vua truyền cho con cháu A-rôn, các thầy tế lễ dâng tế lễ trên bàn thờ CHÚA. Người ta giết các con bò đực rồi các thầy tế lễ lấy máu rảy trên bàn thờ; các con chiên đực được giết và rảy máu trên bàn thờ; các con chiên con cũng được giết và rảy máu trên bàn thờ. Các con dê đực làm tế lễ chuộc tội được đem đến trước mặt vua và hội chúng; họ đặt tay trên chúng; rồi các thầy tế lễ giết các con dê đực ấy làm tế lễ chuộc tội; họ dùng máu làm lễ trên bàn thờ để chuộc tội cho toàn thể Y-sơ-ra-ên vì vua truyền rằng phải dâng tế lễ thiêu và tế lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. Vua truyền đặt người Lê-vi nơi đền thờ CHÚA, trang bị chập chỏa, đàn hạc, đàn lia theo như vua Đa-vít, Gát, vị tiên kiến của vua và tiên tri Na-than đã qui định bởi vì CHÚA qua các tiên tri đã truyền lệnh như thế. Những người Lê-vi đứng cầm nhạc khí Đa-vít và các thầy tế lễ cầm kèn. Bấy giờ vua Ê-xê-chia truyền lệnh dâng tế lễ thiêu lên bàn thờ; khi bắt đầu dâng tế lễ thiêu, bài hát ca ngợi CHÚA cũng bắt đầu, có kèn và các nhạc cụ của Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, phụ họa. Cả hội chúng quì lạy trong khi ban hát và kèn vẫn hòa nhạc cho đến khi cuộc tế lễ thiêu chấm dứt. Khi dâng tế lễ thiêu vừa xong, vua và các quan tháp tùng quì xuống thờ phượng. Vua Ê-xê-chia và các quan truyền lệnh cho những người Lê-vi ca ngợi CHÚA với những bài ca của vua Đa-vít và vị tiên kiến A-sáp; họ hân hoan ca ngợi và cúi đầu thờ phượng. Vua Ê-xê-chia bảo: “Bây giờ các ngươi đã thánh hiến chính mình cho CHÚA, hãy đến, đem sinh tế và tế lễ tạ ơn vào đền thờ CHÚA.” Hội chúng dâng sinh tế và tế lễ tạ ơn; còn tất cả những người có hảo tâm thì dâng tế lễ thiêu. Số tế lễ thiêu hội chúng đem đến dâng cho CHÚA gồm có 70 con bò đực, 100 con chiên và 200 con chiên con. Số lễ vật thánh là 600 con bò và 3,000 chiên dê. Nhưng số thầy tế lễ quá ít không đủ để lột da các con vật cho tất cả tế lễ thiêu nên trong khi những thầy tế lễ khác thanh tẩy mình, những anh em của họ là người Lê-vi phụ giúp cho đến khi hoàn tất. Như thế người Lê-vi hết lòng tận hiến mình hơn các thầy tế lễ. Cũng có nhiều tế lễ thiêu cùng với mỡ của tế lễ cầu an và lễ tưới kèm theo với tế lễ thiêu. Vậy việc tế lễ được tái lập trong đền thờ CHÚA. Vua Ê-xê-chia và toàn thể dân chúng vui mừng về điều Đức Chúa Trời đã đem lại cho họ vì công việc diễn ra nhanh chóng. Cử Hành Lễ Vượt Qua Vua Ê-xê-chia sai sứ giả đi khắp Y-sơ-ra-ên và Giu-đa; vua cũng viết thư kêu gọi Ép-ra-im và Ma-na-se đến đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem để cử hành lễ Vượt Qua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Vua, các quan và toàn thể hội chúng tại Giê-ru-sa-lem quyết định cử hành lễ Vượt Qua vào tháng thứ hai. Lúc ấy họ không thể cử hành lễ đúng theo thời gian qui định30:3 Xem Dân 9:1-4 vì số thầy tế lễ đã thanh tẩy mình chưa đủ số và dân chúng chưa tập họp lại tại Giê-ru-sa-lem. Vua và toàn dân thấy chương trình ấy là phải. Họ ban sắc lệnh thông báo cho toàn thể Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-sê-ba đến Đan về Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì trước đó nhiều người không cử hành lễ như đã ghi chép.30:5 Dịch theo Tg; ctd: không cử hành lễ thường xuyên Những người đưa thư theo lệnh vua cầm thư đi khắp Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua truyền bảo dân chúng: “Hỡi con dân Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên để Ngài cũng trở lại cùng những người sống sót giữa các ngươi, là những người thoát khỏi tay các vua A-si-ri. Chớ như tổ phụ và anh em các ngươi, những người bất trung với CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ nên Ngài đã để cho họ bị nạn khủng khiếp như các ngươi thấy. Giờ đây, chớ cứng cổ như cha ông các ngươi, hãy quy phục CHÚA, hãy đến đền thờ Chúa là nơi Ngài đã thánh hóa đời đời, hãy phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi thì các ngươi sẽ tránh được cơn thịnh nộ dữ dội của Ngài. Nếu các ngươi trở lại cùng CHÚA thì anh em, con cái các ngươi sẽ được những kẻ bắt chúng thương xót và cho trở về quê hương này vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng ân huệ và nhân từ; Ngài sẽ không quay mặt khỏi các ngươi nếu các ngươi trở lại cùng Ngài.” Những người đưa thư đi từ thành này đến thành khác trong xứ Ép-ra-im, Ma-na-se đến tận Sa-bu-luân nhưng người ta chê cười, chế nhạo họ. Tuy nhiên một số người từ A-se, Ma-na-se và Sa-bu-luân hạ mình xuống đi đến Giê-ru-sa-lem. Tay Đức Chúa Trời cũng phù hộ những người Giu-đa, ban cho họ có lòng đoàn kết để thi hành mạng lệnh của vua và các quan theo như lời CHÚA dạy. Vào tháng hai, nhiều người tập trung về Giê-ru-sa-lem cử hành lễ Bánh Không Men, một hội chúng thật đông đảo. Họ đứng lên phá bỏ các bàn thờ ở Giê-ru-sa-lem và dẹp sạch tất cả những bàn thờ dâng hương, ném chúng xuống hố Xết-rôn. Vào ngày mười bốn tháng hai người ta giết con chiên lễ Vượt Qua. Những thầy tế lễ và người Lê-vi thấy hổ thẹn nên thanh tẩy chính mình rồi đem tế lễ thiêu vào đền thờ CHÚA. Họ đứng vào vị trí của mình như Kinh Luật của Môi-se, người của Đức Chúa Trời qui định; những người Lê-vi trao máu cho những thầy tế lễ và họ rảy. Vì có nhiều người trong hội chúng chưa được thanh tẩy nên những người Lê-vi phải giết các con chiên lễ Vượt Qua cho họ để thánh hiến cho CHÚA. Mặc dù một số đông người, phần lớn từ Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca và Sa-bu-luân chưa được thanh sạch nhưng vẫn ăn lễ Vượt Qua trái với qui lệ đã chép, nhưng vua Ê-xê-chia cầu nguyện cho họ rằng: “Nguyện xin CHÚA, Đấng nhân từ, xin tha thứ cho tất cả những người hết lòng tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, dù họ chưa được thanh sạch theo như qui lệ của đền thánh.” CHÚA nghe lời cầu nguyện của vua Ê-xê-chia và chữa lành dân chúng. Các con dân Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem vô cùng vui mừng cử hành lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. Hàng ngày những thầy tế lễ và người Lê-vi hát ca ngợi CHÚA với nhạc cụ phụ họa. Vua Ê-xê-chia khuyến khích lòng của tất cả những người Lê-vi hiểu biết việc phục vụ CHÚA. Họ ăn mừng lễ trọn bảy ngày, dâng tế lễ cầu an và cảm tạ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Toàn thể hội chúng đồng ý cử hành lễ thêm bảy ngày nữa; thế là họ vui vẻ ăn mừng lễ bảy ngày nữa. Vua Ê-xê-chia của Giu-đa cung cấp cho hội chúng 1,000 con bò và 7,000 chiên, dê; các quan cung cấp 1,000 con bò và 10,000 chiên, dê. Nhiều thầy tế lễ thanh tẩy mình cho Chúa. Toàn thể hội chúng người Giu-đa, các thầy tế lễ, người Lê-vi và hội chúng đến từ Y-sơ-ra-ên cùng những người ngoại kiều đến từ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều vui mừng. Có sự vui mừng lớn tại Giê-ru-sa-lem vì từ thời vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên, Giê-ru-sa-lem chưa bao giờ vui vẻ như thế. Bấy giờ những thầy Lê-vi tế lễ đứng lên chúc phước cho dân chúng. Lời chúc phước của họ được nhậm và lời cầu nguyện của họ thấu đến nơi ngự thánh của Chúa, đến tận trời. Phá Hủy Các Đền Miếu Tà Thần Khi mọi việc đã hoàn tất, tất cả những người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó đi ra các thành trong Giu-đa, đập phá các trụ thờ, chặt bỏ các cột thờ, phá các nơi cao và bàn thờ trong khắp Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se cho đến khi phá hủy tất cả. Sau đó mỗi người Y-sơ-ra-ên, ai nấy trở về nhà trong thành của mình. Vua Ê-xê-chia lập lại các ban cho thầy tế lễ và người Lê-vi, mỗi thầy tế lễ và người Lê-vi tùy theo nhiệm vụ của mình, để dâng tế lễ thiêu, tế lễ cầu an; để phục vụ, cảm tạ và ca ngợi nơi cổng đền thờ31:2 Nt: trại CHÚA. Vua lấy tài sản của mình dâng lên làm tế lễ thiêu buổi sáng, buổi chiều, ngày Sa-bát, ngày trăng mới và các ngày lễ theo như đã chép trong Kinh Luật của CHÚA. Vua cũng truyền cho dân chúng sống tại Giê-ru-sa-lem cung cấp các phần phẩm vật dành cho các thầy tế lễ và người Lê-vi để họ chuyên tâm lo việc Kinh Luật của CHÚA. Khi lệnh vua vừa truyền ra, con dân Y-sơ-ra-ên đem dâng rất nhiều sản vật đầu mùa gồm có lúa mì, rượu, dầu, mật ong cùng mọi loại nông phẩm; họ cũng dâng một phần mười trong mọi thứ, số lượng thật nhiều. Người Y-sơ-ra-ên và Giu-đa sống tại các thành trong nước Giu-đa cũng dâng một phần mười các bầy súc vật và chiên dê, một phần mười mọi vật thánh hiến kính CHÚA, Đức Chúa Trời của họ; số phẩm vật dâng hiến chất thành từng đống. Người ta bắt đầu dâng các lễ vật chất thành đống vào tháng ba và đến tháng bảy thì chấm dứt. Khi vua Ê-xê-chia và các quan đến thấy những đống phẩm vật, họ ca ngợi CHÚA và chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên. Vua Ê-xê-chia hỏi các thầy tế lễ và người Lê-vi về các đống phẩm vật. A-xa-ria, thầy thượng tế thuộc dòng họ Xa-đốc thưa cùng vua rằng: “Từ khi dân chúng đem lễ vật dâng hiến đến đền thờ CHÚA, chúng tôi có đủ ăn và còn dư nhiều để dành; vì CHÚA ban phước cho dân Ngài nên mới dư nhiều thế này.” Vua Ê-xê-chia truyền sửa soạn lại các nhà kho trong đền thờ CHÚA; người ta sửa soạn các nhà ấy; và trung tín đem các lễ vật dâng hiến, các lễ vật phần mười và những đồ vật thánh vào. Cô-na-nia, người Lê-vi coi sóc những nhà ấy; Si-mê-i, em người làm phụ tá. Vua Ê-xê-chia và A-xa-ria, người quản đốc đền thờ CHÚA lập Giê-hi-ên, A-xa-xia, Na-hát, A-sa-ên, Giê-ri-mốt, Giô-sa-bát, Ê-li-ên, Ghít-ma-kia, Ma-hát và Bê-na-gia coi sóc dưới quyền Cô-na-nia và Si-mê-i. Cô-rê, con trai Dim-ra, người Lê-vi giữ Cổng Đông, đặc trách các lễ vật tự nguyện dâng cho Đức Chúa Trời, phân phối các lễ vật dâng CHÚA và những đồ vật chí thánh. Dưới quyền người có Ê-đen, Min-gia-min, Giê-sua, Sê-ma-gia, A-ma-ria và Sê-ca-nia từ các thành của thầy tế lễ trung tín phân phối các phần lễ vật cho anh em mình, lớn cũng như nhỏ tùy theo ban. Ngoài những người có ghi trong gia phả, họ cũng phân phát cho những người nam từ ba tuổi trở lên31:16 Có thể là 30 tuổi, 1Sử 23:3 cho mọi người vào đền thờ CHÚA hàng ngày để thi hành nhiệm vụ theo ban mình. Họ cũng phân phát cho các thầy tế lễ có tên trong gia phả theo tông tộc và người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên tùy theo nhiệm vụ và ban của họ. Những người này đã ghi tên trong gia phả tất cả gia đình, con nhỏ, vợ, con trai, con gái, mọi người trong hội chúng vì họ trung tín thanh tẩy mình. Còn đối với những thầy tế lễ dòng dõi A-rôn ở nơi đồng ruộng phụ cận các thành của họ hay bất cứ thành nào khác, thì những người đặc trách trên cũng phân phát phần lễ vật cho mọi người nam trong số các thầy tế lễ và những người Lê-vi đã ghi tên vào gia phả. Vua Ê-xê-chia đã làm như vậy trong khắp Giu-đa. Vua làm điều thiện, ngay chính và trung tín trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời mình. Trong mọi hoạt động, trong việc phục vụ đền thờ CHÚA, việc tuân giữ Kinh Luật và điều răn, việc tìm kiếm Đức Chúa Trời mình, vua đều hết lòng mà làm nên vua được thịnh vượng. San-chê-ríp Vây Thành Giê-ru-sa-lem Sau những việc này và những hành động trung tín của vua Ê-xê-chia thì San-chê-ríp, vua A-si-ri kéo đến xâm chiếm Giu-đa; người bao vây các thành kiên cố và định chiếm lấy chúng. Khi vua Ê-xê-chia thấy vua San-chê-ríp đến và định đánh Giê-ru-sa-lem; vua bàn mưu với các quan và tướng của mình để chặn nước từ các suối ở ngoài thành; họ đều ủng hộ vua. Một lực lượng đông đảo dân chúng tập họp lại và chặn tất cả suối và mạch nước chảy qua vùng đất ấy. Họ bảo: “Tại sao chúng ta lại để các vua A-si-ri đến và tìm được nhiều nước.” Vua cương quyết hành động, sửa chữa tất cả các vách thành hư hỏng, xây tháp canh trên thành và xây một vách thành khác phía ngoài thành ấy. Vua cũng củng cố Mi-lô, thành Đa-vít và chế tạo nhiều vũ khí cùng thuẫn. Vua lập các tướng chỉ huy dân chúng, triệu tập họ đến quảng trường tại cổng thành và khích lệ họ rằng: “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, đừng sợ hãi và kinh hoàng vì vua A-si-ri và đám quân của người, bởi vì Đấng ở với chúng ta vĩ đại hơn những kẻ đi với vua ấy; với vua ấy chỉ là cánh tay người phàm, còn CHÚA ở với chúng ta, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ phù hộ và chiến đấu cho chúng ta.” Dân chúng trở nên can đảm nhờ lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Sau đó, trong khi San-chê-ríp, vua A-si-ri và toàn quân của mình đang tấn công La-ki; vua sai thuộc hạ đến gặp Ê-xê-chia, vua Giu-đa và toàn dân Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem, nói rằng: “San-chê-ríp, vua A-si-ri tuyên bố: ‘Các ngươi tin tưởng gì mà còn ở trong thành Giê-ru-sa-lem bị vây hãm? Chẳng phải Ê-xê-chia đã gạt các ngươi, để các ngươi chết đói, chết khát khi nói rằng CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay vua A-si-ri sao? Chẳng phải chính Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các nơi cao và bàn thờ Ngài sao? Người truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem phải thờ phượng và dâng hương tại một bàn thờ thôi. Các ngươi chưa biết điều ta và tổ phụ ta đã làm cho các dân thiên hạ sao? Các thần của những nước ấy có thể giải cứu lãnh thổ của họ khỏi tay ta chăng? Trong tất cả các thần của những nước mà tổ phụ ta đã hủy diệt, thần nào có thể cứu dân mình khỏi tay ta? Làm thế nào Đức Chúa Trời của các ngươi có thể cứu các ngươi khỏi tay ta? Vậy, bây giờ, đừng để Ê-xê-chia lừa dối và gạt các ngươi như thế. Chớ tin tưởng người, vì nếu chưa có thần của nước nào hay vương quốc nào có thể giải cứu dân mình khỏi tay ta và tay của tổ phụ ta, thì làm thế nào Đức Chúa Trời của các ngươi có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta được.’ ” Thuộc hạ của vua A-si-ri cũng nói phạm đến CHÚA, Đức Chúa Trời và phạm đến vua Ê-xê-chia, tôi tớ Ngài. Người cũng viết thư nhục mạ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và nói thế này: “Những thần của các dân thiên hạ đã không thể cứu dân mình khỏi tay ta thì Đức Chúa Trời của Ê-xê-chia cũng không thể cứu dân mình khỏi tay ta.” Chúng cũng dùng tiếng Hy-bá nói lớn cho dân Giê-ru-sa-lem trên thành nghe, làm cho họ sợ hãi và khiếp đảm để chiếm lấy thành. Chúng nói về Đức Chúa Trời của Giê-ru-sa-lem y như những thần của các dân thiên hạ, là sản phẩm của tay người làm ra. Đạo Quân San-chê-ríp Bị Hủy Diệt Bấy giờ vua Ê-xê-chia và tiên tri I-sa, con trai A-mốt cầu nguyện về việc này; họ cầu khẩn đến tận trời. CHÚA sai một thiên sứ tiêu diệt tất cả binh sĩ, những người lãnh đạo, chỉ huy trong trại quân vua A-si-ri khiến người phải rút lui một cách nhục nhã về xứ mình. Thế rồi khi vua vào đền thờ thần mình, vài người con vua đã giết vua bằng gươm. Như vậy CHÚA đã giải cứu vua Ê-xê-chia và cư dân Giê-ru-sa-lem khỏi tay San-chê-ríp, vua A-si-ri và khỏi tay mọi kẻ thù khác; Ngài ban cho họ bình an mọi bề. Nhiều người đem lễ vật đến Giê-ru-sa-lem dâng cho CHÚA và các tặng phẩm quí báu dâng cho Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Từ đó về sau vua Ê-xê-chia được mọi nước kính trọng. Vào lúc ấy, vua Ê-xê-chia bị bệnh nặng gần chết; vua cầu nguyện cùng CHÚA; Ngài đáp lời và ban cho vua một dấu lạ. Nhưng vua Ê-xê-chia không đền đáp ơn phước CHÚA đã ban vì lòng vua kiêu ngạo; vì thế cơn thịnh nộ đổ xuống trên vua, trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ vua Ê-xê-chia hạ mình xuống, không còn tự cao nữa và dân Giê-ru-sa-lem cũng vậy; nhờ thế trong đời vua Ê-xê-chia cơn thịnh nộ của CHÚA không giáng xuống nữa. Vua Ê-xê-chia rất giàu có và được tôn trọng; vua xây các nhà kho để chứa bạc, vàng, đá quí, hương liệu, thuẫn và mọi vật quí giá. Vua xây các kho để chứa lúa, rượu mới, dầu; chuồng cho mọi đàn súc vật và bày chiên, dê. Vua cũng xây cất các thành, tậu nhiều đàn súc vật và bày chiên, dê, vì Đức Chúa Trời đã ban cho vua rất nhiều tài sản. Chính vua Ê-xê-chia là người đã lấp thượng nguồn của suối Ghi-hôn rồi dẫn nước xuống phía tây thành Đa-vít; trong mọi việc mình làm, vua Ê-xê-chia đều thành công. Cũng vậy, khi các sứ giả do những người lãnh đạo Ba-by-lôn sai đến hỏi vua về các dấu lạ xảy ra trong xứ, Đức Chúa Trời đã rời khỏi vua để thử vua, để biết những điều trong lòng vua. Kìa, các công việc khác của vua Ê-xê-chia, lòng tận trung của người, đều được ghi chép trong khải tượng của tiên tri I-sa, con trai A-mốt và trong sách các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Vua Ê-xê-chia an giấc cùng tổ phụ và được chôn cất tại trên đồi trong khu lăng tẩm của dòng dõi vua Đa-vít. Khi vua qua đời, toàn thể Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem long trọng an táng vua. Thái tử Ma-na-se lên ngôi kế vị vua. Cuộc Trị Vì Của Vua Ma-na-se Vua Ma-na-se lên ngôi lúc mười hai tuổi; vua trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA; theo những thói tục ghê tởm của các dân mà CHÚA đã đánh đuổi đi khỏi trước mặt con dân Y-sơ-ra-ên. Vua xây dựng trở lại những nơi cao mà vua cha Ê-xê-chia đã phá hủy; lập bàn thờ cho thần Ba-anh, xây các trụ thờ; vua thờ lạy các tinh tú trên trời và phục vụ chúng. Vua xây các bàn thờ trong đền thờ CHÚA, là nơi CHÚA phán rằng: “Danh Ta sẽ ở tại Giê-ru-sa-lem đời đời.” Người cũng xây các bàn thờ cho các tinh tú trên trời ngay trong hai sân đền thờ CHÚA. Vua dâng con qua lửa tại thung lũng Ben Hi-nôm, thực hành chiêm tinh, bói khoa, phù thủy, lên đồng, cầu hồn; người làm nhiều điều ác trước mắt CHÚA để trêu giận Ngài. Vua đặt một tượng mà vua đã tạc trong đền thờ CHÚA, nơi Đức Chúa Trời đã phán với vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn rằng: “Trong đền thờ này và tại Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để đặt Danh Ta đời đời. Ta sẽ không bao giờ lại cất đi bàn chân của người Y-sơ-ra-ên khỏi mảnh đất mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nếu họ cẩn thận làm theo mọi Kinh Luật, qui định và sắc luật mà Ta đã sai Môi-se truyền cho.” Nhưng vua Ma-na-se đã hướng dẫn dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem lầm lạc, làm điều ác còn hơn cả những nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mắt con dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán cùng vua Ma-na-se và dân chúng nhưng họ không để ý. Vì vậy, CHÚA cho các tướng của đạo quân vua A-si-ri đến tấn công chúng; họ bắt vua Ma-na-se làm tù binh, cột vua bằng xích đồng và móc mũi vua giải về Ba-by-lôn. Trong khi hoạn nạn vua cầu khẩn CHÚA, Đức Chúa Trời mình và hạ mình xuống thật thấp trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người. Vua cầu nguyện cùng Chúa; Ngài động lòng và nghe lời cầu xin của vua; Ngài đem vua trở về Giê-ru-sa-lem và ban vương quốc lại cho vua. Bấy giờ vua Ma-na-se biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của người. Sau đó vua tái thiết bức tường phía ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn, trong thung lũng, đến tận cổng Cá, vòng quanh Ô-phên. Vua xây nó cao hơn, cử các tướng trấn giữ tại tất cả các thành kiên cố của Giu-đa. Vua dẹp bỏ hết các thần ngoại quốc, các hình tượng trong đền thờ CHÚA cũng như các bàn thờ mà vua đã xây trên đồi đền thờ CHÚA và tại Giê-ru-sa-lem; vua ném bỏ hết ra ngoài thành. Vua tái thiết bàn thờ CHÚA, dâng sinh tế, tế lễ cầu an và cảm tạ cho Ngài. Vua truyền cho Giu-đa phải phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên dân chúng vẫn dâng sinh tế tại các nơi cao, nhưng chỉ dâng cho CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Những công việc khác của vua Ma-na-se, lời cầu nguyện của người với Đức Chúa Trời; những lời đấng tiên kiến nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nói với vua đều được chép trong sách sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên. Lời cầu nguyện của vua và thể nào Chúa đã nhậm lời cũng như mọi tội lỗi vua phạm, sự bất trung, những nơi cao người xây, các trụ thờ và hình tượng trước khi vua hạ mình xuống; những việc này đều được ghi chép trong sách của Hô-sai.33:19 Một văn bản cổ và LXX: Đấng tiên kiến Vua Ma-na-se an nghỉ cùng tổ phụ và được chôn trong cung vua. Thái tử A-môn lên ngôi kế vị. Vua A-môn lên ngôi lúc hai mươi hai tuổi; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai năm. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA như vua cha Ma-na-se đã làm; vua A-môn dâng tế lễ cho tất cả thần tượng mà vua cha Ma-na-se đã làm ra và phục vụ chúng. Nhưng vua không hạ mình xuống trước mặt CHÚA như vua cha Ma-na-se đã làm, trái lại còn phạm tội nhiều hơn nữa. Bấy giờ các thuộc hạ của vua âm mưu chống nghịch vua; họ ám sát vua trong hoàng cung. Nhưng dân chúng trong xứ giết hết tất cả những kẻ âm mưu chống nghịch vua A-môn và tôn thái tử Giô-si-a lên ngôi kế vị. Cuộc Trị Vì Của Vua Giô-si-a Vua Giô-si-a lên ngôi làm vua lúc tám tuổi; người trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều thiện trước mắt CHÚA, sống theo đường lối của vua Đa-vít, tổ phụ mình, không xoay qua bên phải hay bên trái. Vào năm thứ tám đương thời vua trị vì, dù còn trẻ vua bắt đầu tìm kiếm Đức Chúa Trời của vua Đa-vít, tổ phụ mình. Đến năm thứ mười hai, vua bắt đầu thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, loại bỏ những nơi cao, các trụ thờ, những tượng chạm khắc và hình tượng đúc. Trước sự chứng kiến của vua, người ta phá hủy các bàn thờ thần Ba-anh và những bàn thờ dâng hương phía trên các bàn thờ ấy. Người đập tan các trụ thờ, tượng chạm và hình tượng đúc rồi nghiền nát chúng và rải trên mồ mả những kẻ đã cúng tế chúng. Vua đốt xương cốt các thầy cúng các thần trên những bàn thờ của chúng; như vậy, vua thanh tẩy Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Tại các thành thuộc những bộ tộc Ma-na-se, Ép-ra-im, Si-mê-ôn, đến tận Nép-ta-li và những nơi hoang tàn chung quanh, vua phá hủy các bàn thờ, trụ thờ và hình tượng rồi nghiền nát chúng thành tro bụi; vua cũng đập tan tất cả bàn thờ dâng hương trên khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên; sau đó vua trở về Giê-ru-sa-lem. Năm thứ mười tám dưới thời vua trị vì, sau khi đã thanh tẩy lãnh thổ và đền thờ, vua sai Sa-phan, con trai A-sa-lia, Ma-a-sê-gia, tổng đốc thành đô cùng ông Giô-a, con trai Giô-a-cha, quan ký lục, sửa chữa đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của vua. Họ đến giao tiền bạc để tu bổ đền thờ Đức Chúa Trời cho thầy thượng tế Hinh-kia, tức là tiền những người Lê-vi giữ cổng đã thâu nơi người Ma-na-se, Ép-ra-im, toàn thể những người còn lại của Y-sơ-ra-ên, tất cả những người Giu-đa, Bên-gia-min cùng dân cư thành Giê-ru-sa-lem. Họ giao tiền cho những người coi sóc công việc trong đền thờ CHÚA; những người này trả công cho những người sửa chữa và trùng tu đền thờ CHÚA. Chúng cũng giao tiền cho thợ mộc và thợ xây nhà mua đá đẽo, gỗ để làm kèo, cột cho các ngôi nhà mà các vua Giu-đa đã để cho hư hỏng. Những người này trung tín làm việc. Những người Lê-vi được cử để hướng dẫn họ gồm có Gia-hát và Ô-ba-đia thuộc dòng dõi Mê-ra-ri; Xa-cha-ri và Mê-su-lam thuộc dòng dõi Kê-hát cùng những người Lê-vi khác, tất cả đều có khả năng sử dụng nhạc khí. Những người này coi sóc công nhân và quản trị mọi công việc; có người Lê-vi làm thư ký, người làm nhân viên, người thì giữ cổng. Trong khi lấy bạc đã dâng vào đền thờ CHÚA ra, thầy tế lễ Hinh-kia tìm thấy cuốn Kinh Luật của CHÚA do Môi-se truyền lại. Thầy tế lễ Hinh-kia nói với viên thư ký Sa-phan: “Ta tìm thấy cuốn Kinh Luật trong đền thờ CHÚA” và đưa cuốn sách cho Sa-phan. Sa-phan đem cuốn sách vào cho vua và tâu rằng: “Mọi việc vua ủy nhiệm cho các tôi tớ ngài, họ đang thi hành. Họ đã lấy bạc trong đền thờ CHÚA trả cho những người coi sóc công việc và cho những người làm việc.” Thư ký Sa-phan cũng tâu với vua: “Thầy tế lễ Hinh-kia cũng trao cho tôi một cuốn sách” rồi ông đọc sách ấy trước mặt vua. Sau khi nghe những lời của Kinh Luật vua xé áo mình, truyền lệnh cho Hinh-kia, A-hi-cam, con trai của Sa-phan, Áp-đôn, con trai của Mi-ca, Sa-phan, thư ký và A-sa-gia, quan cận thần của vua rằng: “Hãy đi cầu vấn CHÚA cho ta, cho những người còn lại của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa về các lời trong cuốn sách mới tìm lại được. Vì cơn thịnh nộ của CHÚA đang giáng xuống chúng ta thật là lớn; bởi vì tổ tiên chúng ta đã không tuân giữ lời CHÚA và cũng không làm theo mọi điều đã chép trong sách này.” Hinh-kia và những người vua sai đến gặp nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum, người giữ áo lễ, con trai của Tô-cát, cháu Hát-ra; bà đang ở tại quận hai, Giê-ru-sa-lem. Họ nói cho bà những lời vua phán. Bà nói với họ: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Hãy nói với người sai các ông đến cùng ta rằng: CHÚA phán như vầy: Ta sẽ giáng tai họa xuống nơi này và cư dân ở nơi này, giáng tất cả những lời rủa sả đã chép trong sách mà người ta đã đọc trước mặt vua Giu-đa. Vì chúng nó đã từ bỏ Ta, dâng hương cho các thần khác để chọc giận Ta và cũng vì mọi việc tay chúng đã làm ra; Ta sẽ đổ cơn giận ta xuống nơi này và sẽ không nguôi.’ Còn về vua của Giu-đa, người đã sai các ngươi đến cầu vấn CHÚA, hãy nói với người những lời các ngươi đã nghe rằng, CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Vì ngươi đã mềm lòng, hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời khi nghe những lời Ngài phán nghịch lại chỗ này và cư dân ở đây; ngươi đã hạ mình xuống trước mặt Ta, xé áo mình và khóc lóc trước mặt ta, nên Ta cũng đã nghe,’ CHÚA tuyên bố. ‘Này, Ta sẽ đem ngươi về cùng tổ tiên, ngươi sẽ được chôn cất bình an và mắt ngươi sẽ không thấy tất cả những tai họa mà ta sẽ giáng xuống chỗ này và cư dân ở đây.’ ” Họ tâu lại cho vua những lời ấy. Vua truyền triệu tập tất cả những trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Vua đi lên đền thờ CHÚA; tất cả những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, thầy tế lễ, người Lê-vi, người lớn, kẻ nhỏ cùng đi theo. Vua đọc cho họ nghe mọi lời chép trong sách giao ước đã tìm thấy trong đền thờ CHÚA. Vua đứng tại chỗ mình, tái kết ước trước mặt CHÚA, hứa theo CHÚA, tuân giữ các điều răn, sắc luật và đạo luật cùng hết lòng, hết linh hồn thi hành những lời giao ước đã chép trong sách này. Vua truyền cho tất cả những người có mặt tại Giê-ru-sa-lem và Bên-gia-min cũng cam kết như thế; dân cư Giê-ru-sa-lem đã làm theo giao ước của Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Vua Giô-si-a dẹp sạch mọi hình tượng ghê tởm khỏi lãnh thổ Y-sơ-ra-ên và bắt mọi người Y-sơ-ra-ên phải phục vụ CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Trọn đời vua dân chúng không từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ. Cử Hành Lễ Vượt Qua Vua Giô-si-a cử hành lễ Vượt Qua mừng CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Vào ngày 1 tháng thứ Nhất, người ta giết con chiên của Lễ Vượt Qua. Vua lập các thầy tế lễ theo nhiệm vụ và khuyến khích họ phục vụ trong đền thờ CHÚA. Vua phán với những người Lê-vi, là những người đã thanh tẩy cho CHÚA và vẫn dạy dỗ toàn dân Y-sơ-ra-ên, rằng: “Hãy đặt rương thánh trong đền thờ mà vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên đã xây cất; các ngươi không cần phải khiêng nó đi trên vai nữa; hãy phục vụ CHÚA, Đức Chúa trời các ngươi và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Các ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng tùy tông tộc và ban của mình theo đạo luật mà Đa-vít, vua Y-sơ-ra-ên và vua Sa-lô-môn, con người đã ghi chép. Hãy theo thứ tự ban, đứng tại Nơi Thánh, đại diện cho dân chúng theo như các ban trong tông tộc người Lê-vi. Hãy thanh tẩy cho mình, giết con chiên của tế lễ Vượt Qua, chuẩn bị chiên con cho dân chúng theo như lời CHÚA đã truyền dạy Môi-se.” Vua Giô-si-a lấy từ sản vật của mình cung cấp ba chục ngàn chiên và dê cùng ba ngàn bò để làm sinh tế cho những người dự lễ Vượt Qua tại đó. Các quan cũng tự nguyện tặng vật sinh tế cho dân chúng, cho các thầy tế lễ và người Lê-vi. Các ông Hinh-kia, Xa-cha-ri và Giê-hi-ên, là các quản đốc cai quản đền thờ Đức Chúa Trời, tặng cho các thầy tế lễ để dâng tế trong lễ Vượt Qua 2,600 chiên, dê và 300 con bò. Các ông Cô-na-nia, Sê-ma-gia, Na-tha-na-ên và anh em người, Ha-sa-bia, Giê-i-ên và Giô-sa-bát, là những thủ lãnh của người Lê-vi, cung cấp 5,000 chiên, dê và 500 bò cho người Lê-vi dự lễ Vượt Qua. Lễ đã được chuẩn bị sẵn sàng, các thầy tế lễ đứng theo vị trí của mình, những người Lê-vi đứng theo ban mình như vua đã truyền. Họ giết các chiên con của tế lễ Vượt Qua; các thầy tế lễ nhận huyết từ họ và rảy; những người Lê-vi khác lột da sinh tế. Người ta để riêng các của tế lễ toàn thiêu để phân phát cho các nhóm tùy theo tông tộc trong dân chúng để dâng kính CHÚA đúng như sách Môi-se đã ghi chép. Họ cũng làm như vậy đối với bò. Họ nướng các con chiên lễ Vượt Qua theo qui định, nấu các phần dâng thánh trong nồi, vạc, chảo rồi phân phát ngay cho mọi người dân. Sau đó những người Lê-vi chuẩn bị phần thịt cho mình và cho các thầy tế lễ vì các thầy tế lễ, dòng dõi thầy tế lễ A-rôn, bận dâng tế lễ toàn thiêu và các phần mỡ cho đến tối. Như thế những người Lê-vi chuẩn bị cho mình và cho các thầy tế lễ, con cháu thầy tế lễ A-rôn. Những người ca hát, con cháu A-sáp, đứng trong vị trí mình theo như Đa-vít, A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, vị tiên kiến của vua đã qui định. Những người giữ cổng vẫn làm nhiệm vụ, không phải rời vị trí của mình vì những người Lê-vi anh em đã chuẩn bị phần cho họ. Như thế, hôm ấy, toàn buổi lễ thờ phượng CHÚA được chuẩn bị chu đáo để cử hành lễ Vượt Qua và dâng tế lễ toàn thiêu trên bàn thờ CHÚA theo lệnh vua Giô-si-a. Con dân Y-sơ-ra-ên hiện diện tại đó cử hành lễ Vượt Qua và giữ lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. Từ thời tiên tri Sa-mu-ên, chưa có lễ Vượt Qua nào được cử hành như thế trong Y-sơ-ra-ên; cũng chưa có vua Y-sơ-ra-ên nào đã cử hành lễ Vượt Qua như vua Giô-si-a cùng các thầy tế lễ, người Lê-vi, toàn thể người Giu-đa, người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó và dân cư thành Giê-ru-sa-lem đã làm. Lễ Vượt Qua này được cử hành vào năm thứ mười tám dưới triều vua Giô-si-a. Sau khi vua Giô-si-a làm mọi việc trùng tu đền thờ CHÚA, thì Nê-cô, vua Ai-cập kéo lên đánh Kạt-kê-mít bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Vua Giô-si-a kéo ra đón người. Vua Ai-cập sai sứ giả đến nói với vua Giô-si-a: “Vua Giu-đa, Ta và ngài có chuyện gì đâu? Hôm nay ta tiến quân không phải để tấn công ngài, nhưng tấn công nhà thù nghịch với ta; Đức Chúa Trời bảo ta hãy làm việc này nhanh lên, vậy đừng chống lại Đức Chúa Trời, Đấng đang ở với ta, nếu không Ngài sẽ hủy diệt ngươi.” Nhưng vua Giô-si-a không chịu rút lui, vua ngụy trang và cứ tiến quân tấn công vua Ai-cập. Vua không chịu nghe lời Đức Chúa Trời cậy miệng vua Nê-cô nói, cứ tiến quân nghênh chiến tại đồng bằng Mê-ghi-đô. Vua Giô-si-a bị tên bắn trúng; vua bảo những người hầu cận: “Hãy đem ta ra ngoài vì ta bị thương nặng.” Những người hầu cận đem vua ra khỏi xe chiến mã, đặt trên một xe chiến mã khác rồi chở vua về Giê-ru-sa-lem và vua chết tại đó. Vua được chôn cất trong lăng cùng với tổ tiên mình. Toàn thể Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều khóc thương vua Giô-si-a. Giê-rê-mi đã sáng tác một bài ai ca khóc vua Giô-si-a. Ngày nay những người ca hát nam lẫn nữ đều hát bài ai ca khóc vua Giô-si-a và nó trở thành một truyền thống trong Y-sơ-ra-ên; này, nó cũng được ghi chép trong các bài ai ca. Những công việc khác của vua Giô-si-a, sự sùng kính của vua theo như Kinh Luật của CHÚA; kìa, những công việc của vua từ đầu đến cuối đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vua Giô-a-cha Dân trong xứ tôn Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a lên làm vua kế vị vua cha tại Giê-ru-sa-lem. Vua Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi; vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ vua Ai-cập truất ngôi vua Giô-a-cha ở Giê-ru-sa-lem và bắt nước Giu-đa triều cống một trăm ta-lâng bạc36:3 khoảng 3.4 tấn và một ta-lâng vàng.36:3 khoảng 34kg Vua Ai-cập lập Ê-li-a-kim, anh vua Giô-a-cha lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem và đổi tên người thành Giê-hô-gia-kim; vua Nê-cô cũng bắt vua Giô-a-cha đem về Ai-cập. Vua Giê-hô-gia-kim lên ngôi lúc hai mươi lăm tuổi; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm; người làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời người. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn tấn công vua, bắt vua trói lại bằng xích đồng và dẫn về Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn cũng lấy các vật dụng trong đền thờ CHÚA đem về để trong cung mình ở Ba-by-lôn. Những việc khác của vua Giê-hô-gia-kim, những việc ghê tởm người đã làm cùng những điều xấu về người, kìa chúng đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Giê-hô-gia-kin, con trai vua lên ngôi kế vị. Giê-hô-gia-kin lên ngôi làm vua khi được mười tám tuổi;36:9 Dịch theo một văn bản Hy-bá cổ và các bản dịch cổ LXX và Syr. Nt: 8 tuổi vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba tháng mười ngày; vua làm điều ác trước mắt CHÚA. Vào đầu năm sau, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai người đến bắt, điệu vua về Ba-by-lôn cùng với những vật dụng quí giá trong đền thờ CHÚA. Vua cũng lập Sê-đê-kia, chú người lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem. Vua Sê-đê-kia lên ngôi khi được hai mươi mốt tuổi; vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm. Vua làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời mình và không khiêm nhường trước mặt tiên tri Giê-rê-mi, là người phán lời CHÚA. Vua cũng phản nghịch chống lại vua Nê-bu-cát-nết-sa, người đã buộc vua nhân danh CHÚA tuyên thệ. Vua trở nên cứng cổ, lòng dạ chai đá, không chịu quay lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Hơn thế nữa, những thầy tế lễ lãnh đạo và dân chúng ngày càng trở nên bất trung, làm mọi điều ghê tởm như các nước chung quanh; họ làm ô uế đền thờ CHÚA, là đền thờ Ngài đã để riêng ra thánh tại Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem Sụp Đổ CHÚA, Đức Chúa trời của tổ phụ họ đã nhiều lần sai các sứ giả Ngài đến với chúng vì Ngài thương xót dân Ngài và nơi Ngài ngự. Nhưng chúng nhạo báng các sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh thường lời Chúa, chế giễu các tiên tri của Ngài, vì thế cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên trừng phạt dân chúng, không còn phương cứu chữa. CHÚA cho vua Ba-by-lôn đến trừng phạt chúng; vua này dùng gươm giết những thanh niên trong Nơi Thánh; người không tha mạng thanh niên, thiếu nữ, người già, kẻ yếu ớt; Ngài trao tất cả chúng nó vào tay vua. Vua lấy tất cả vật dụng lớn nhỏ trong đền thờ Đức Chúa Trời, các kho báu của đền thờ CHÚA, các kho báu của vua và của các quan, đem hết về Ba-by-lôn. Quân Ba-by-lôn đốt đền thờ Đức Chúa Trời; phá hủy tường thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt mọi cung điện và báu vật trong thành. Những kẻ sống sót thoát nạn gươm đao, thì bị vua bắt đem qua Ba-by-lôn làm nô lệ cho vua và cho con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba-tư tể trị. Điều này xảy ra để ứng nghiệm lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán rằng, xứ được hưởng bù những ngày Sa-bát, tức là trọn những ngày xứ sở bị hoang tàn, nó được nghỉ ngơi đến bảy mươi năm trọn. Vào năm thứ nhất dưới triều Si-ru, vua Ba-tư; lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán được ứng nghiệm. CHÚA tác động tâm trí Si-ru, vua Ba-tư, để vua công bố trên toàn vương quốc và bằng sắc chỉ rằng: Vua Si-ru nước Ba-tư tuyên bố như vầy: “CHÚA, Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất và Ngài lập ta để xây cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. Vậy ai trong vòng các ngươi là dân của Ngài, nguyện xin CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi ở cùng ngươi, hãy tiến lên.”