- New Vietnamese Bible 2014 Công Vụ Công Vụ của CÁC SỨ ĐỒ Công Vụ Công Công Vụ Của CÁC SỨ ĐỒ Giới Thiệu Sách Công Vụ là phần tiếp nối của Phúc Âm Lu-ca. Mục đích chính của sách này là ghi lại những hoạt động của các môn đệ Chúa do quyền năng của Đức Thánh Linh truyền bá và thiết lập Hội Thánh của Chúa Cứu Thế Giê-su; bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem đến Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến cùng quả đất. Đây là câu chuyện về một phong trào của những người tin theo Chúa Cứu Thế Giê-su, bắt đầu là niềm tin của một số người Do Thái, về sau đã trở thành niềm tin của cả thế giới. Lu-ca cẩn thận trình bày rằng những tín hữu của Chúa Cứu Thế Giê-su không phải là một phong trào chính trị và đe dọa đến nền an ninh của đế quốc La Mã nhưng là một sự thành tựu của Do Thái giáo từ thời Cựu Ước. Sách Công Vụ có thể gồm có ba phần: 1. Phần đầu nói về sự khởi đầu của phong trào tại Giê-ru-sa-lem sau khi Chúa Giê-su về trời. 2. Phong trào lan ra các vùng khác tại Pha-lê-tin. 3. Sự mở rộng của Hội Thánh Chúa từ Trung Đông đến Rô-ma. Một điểm quan trọng được nhấn mạnh trong sách Công Vụ là hoạt động của Đức Thánh Linh trong việc hỗ trợ, thêm sức, hướng dẫn Hội Thánh đầu tiên và những nhà lãnh đạo Hội Thánh xây dựng và phát triển Nước Chúa. Sách Công Vụ ghi lại nhiều bài giảng của các Sứ Đồ nói lên trọng tâm của Phúc Âm và quyền năng của Phúc Âm trong đời sống của những người tin trong hội chúng tín hữu, tức Hội Thánh của Chúa Cứu Thế Giê-su. Bố Cục 1. Sự chuẩn bị của các chứng nhân 1:1-26 2. Hoạt động của các nhân chứng tại Giê-ru-sa-lem 2:1–8:3 3. Nhân chứng tại Giu-đê và Sa-ma-ri 8:4–12:25 4. Hoạt động của Sứ Đồ Phao-lô 13:1–28:31 a. Cuộc truyền giáo thứ nhất 13:1–14:28 b. Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem 15:1-35 c. Cuộc truyền giáo thứ nhì 15:36–18:22 d. Cuộc truyền giáo thứ ba 18:23–21:16 e. Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem, Sê-sa-rê và Rô-ma 21:17–28:31 Thưa Ngài Thê-ô-phi-lơ, Trong quyển thứ nhất, tôi có tường thuật đầy đủ mọi điều Đức Giê-su đã thực hiện và giáo huấn từ lúc ban đầu cho đến ngày được tiếp về trời, sau khi cậy Đức Thánh Linh truyền dạy các sứ đồ Ngài tuyển chọn. Sau cái chết thống khổ, Ngài tỏ mình đang sống bằng nhiều chứng cớ rõ ràng cho họ thấy. Ngài hiện đến với các sứ đồ suốt bốn mươi ngày và dạy bảo họ những điều về Nước Đức Chúa Trời. Trong khi họp mặt, Ngài căn dặn họ: “Các con đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng phải chờ đợi điều Cha đã hứa,1:4 Nt: lời hứa của Cha là điều các con đã nghe Ta nói. Vì Giăng đã làm báp-tem bằng nước nhưng ít ngày nữa, các con sẽ nhận báp-tem bằng Đức Thánh Linh.” Vì vậy những người đang họp với nhau, hỏi Ngài: “Lạy Chúa, có phải đây là lúc Chúa khôi phục vương quốc cho Y-sơ-ra-ên không?” Chúa đáp: “Các con không nên biết thì giờ hay thời kỳ,1:7 Nt: mùa tiết là điều thuộc quyền Cha định đoạt, nhưng các con sẽ nhận lãnh quyền năng khi Đức Thánh Linh đến trên các con, và các con sẽ làm nhân chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến tận cùng trái đất.” Sau khi phán dạy xong các lời ấy, Chúa được tiếp đón về trời, đang lúc các môn đệ nhìn theo Ngài, một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không còn trông thấy nữa. Họ còn chăm chú nhìn theo Ngài lên trời, bỗng có hai người nam mặc áo trắng hiện ra đứng bên họ, bảo: “Các người Ga-li-lê kia, sao các anh cứ đứng nhìn lên trời làm gì? Đức Giê-su này vừa được tiếp đón về trời khỏi các anh cũng sẽ trở lại như cách các anh thấy Ngài lên trời vậy!” Sau đó, họ từ núi Ô-liu về Giê-ru-sa-lem. Núi ấy ở gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách một quãng đường đi một ngày Sa-bát.1:12 Khoảng một ki-lô mét Về đến nơi, họ lên lầu và ở tại đó. Hiện diện có Phê-rơ, Giăng, Gia-cơ, An-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-mi, Ma-thi-ơ, Gia-cơ (con An-phê), Si-môn người thuộc nhóm Sê-lốt và Giu-đa (con Gia-cơ). Tất cả các người đó đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện liên tục cùng với các bà và Ma-ri là mẹ Đức Giê-su và các em trai Ngài. Trong những ngày ấy, Phê-rơ đứng lên giữa nhóm anh em đông khoảng một trăm hai mươi người, và nói: “Thưa các anh em, lời Kinh Thánh mà Đức Thánh Linh đã phán từ xưa qua môi miệng Đa-vít phải được ứng nghiệm. Lời Chúa nói về Giu-đa, kẻ đã dẫn đường cho bọn người đi bắt Đức Giê-su. Hắn là một người trong số chúng tôi và dự phần vào chức vụ này. Giu-đa đã lấy tiền thưởng cho công tác tội ác đi mua một đám ruộng, nhưng nó ngã đâm đầu xuống giữa ruộng, bụng nứt, ruột đổ ra. Việc này cả dân Giê-ru-sa-lem đều biết rõ, nên họ gọi đám ruộng đó là Hắc-ên-đa-ma (nghĩa là Ruộng Huyết). Vì Thánh Thi đã chép: ‘Nguyện chỗ ở nó phải hoang tàn Và cũng không còn ai cư trú tại đó Nguyện một người khác thay thế chức vị nó!’ Vì thế, cần phải chọn một người trong nhóm từng ở với chúng tôi suốt thời gian Chúa Giê-su đi lại giữa chúng ta, bắt đầu từ khi Giăng làm báp-tem cho đến ngày Đức Giê-su được tiếp lên trời khỏi chúng ta. Phải có một người trong nhóm này hiệp với chúng tôi làm nhân chứng về sự sống lại của Chúa!” Vậy, họ đề cử hai người: Giô-sép gọi là Ba-sa-ba (biệt danh là Giúc-tu) và Ma-thia, và cầu nguyện: “Lạy Chúa là Đấng biết rõ lòng dạ mọi người, xin Chúa chỉ cho chúng con biết ai là người Chúa chọn trong hai người này, để thay thế nhiệm vụ và chức sứ đồ của Giu-đa, kẻ đã từ bỏ để đi vào nơi riêng của nó!” Họ bắt thăm, thăm trúng Ma-thia, nên ông được liệt vào hàng sứ đồ chung với mười một vị kia. Đức Thánh Linh Giáng Lâm Đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ Chúa tập họp tại một chỗ. Thình lình có tiếng động từ trời như tiếng gió thổi mạnh, đầy cả nhà môn đệ ngồi Có những lưỡi như lửa xuất hiện, rải ra và đậu trên mỗi người. Tất cả đều đầy dẫy Thánh Linh, bắt đầu nói các ngôn ngữ khác theo như Thánh Linh cho họ nói. Bấy giờ, tại thành Giê-ru-sa-lem có những người Do Thái kính sợ Đức Chúa Trời từ khắp các nước trong thiên hạ. Khi tiếng động vang ra, một đoàn dân đông đảo tụ tập lại. Họ kinh ngạc vì nghe các môn đệ Chúa mỗi người nói được thứ tiếng của dân tộc mình. Họ vô cùng sửng sốt hỏi nhau: “Tất cả những người này không phải là dân Ga-li-lê sao? Sao chúng ta nghe mỗi người nói tiếng bản xứ của chúng ta? Nào là người Bạc-thê, Mê-đi, Ê-lam, dân Lưỡng Hà, Giu-đê, Cáp-ba-đốc, Bông-tu, A-si, Phơ-ri-gi, Bam-phi-li, Ai-cập, vùng Li-by, gần Sy-ren, du khách từ La-mã, người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái Giáo, người Cơ-rết và Ả-rập, chúng ta nghe họ dùng ngôn ngữ của chúng ta để nói lên những công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời.” Tất cả đều sửng sốt, bối rối hỏi nhau: “Việc này có nghĩa gì đây?” Nhưng có kẻ khác lại chế giễu: “Họ say rượu ngọt đó!” Nhưng Phê-rơ đứng lên với mười một sứ đồ, lớn tiếng tuyên bố với đám đông: “Thưa anh em ở Giu-đê và tất cả quý vị đang ở Giê-ru-sa-lem! Xin quý vị lắng nghe lời tôi trình bày để biết rõ điều này. Những anh em này không say rượu như quý vị tưởng đâu, vì bây giờ mới chín giờ sáng. Nhưng đây chính là điều Chúa đã phán qua nhà tiên tri Giô-ên. Đức Chúa Trời phán: ‘Trong những ngày sau cùng, Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên tất cả mọi người, Con trai và con gái các ngươi sẽ nói tiên tri, Thanh niên sẽ thấy khải tượng Người già sẽ thấy chiêm bao. Trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thánh Linh Ta trên các tôi trai, tớ gái của Ta, Và họ sẽ nói tiên tri. Ta sẽ ban các phép mầu trên trời Và dấu lạ dưới đất là máu, Lửa và luồng khói. Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, Mặt trăng sẽ đỏ như máu Trước ngày vĩ đại và vinh quang của Chúa đến. Và ai cầu khẩn Danh Chúa đều sẽ được cứu.’2:21 Giô 2:28-32 Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin hãy nghe các lời này: Đức Giê-su, người Na-xa-rét đã được Đức Chúa Trời chứng nhận trước mặt quý vị bằng những việc quyền năng, phép mầu và dấu lạ mà qua Ngài, Đức Chúa Trời đã làm giữa quý vị như chính quý vị đã biết rõ. Ngài đã bị nộp cho quý vị theo chương trình và sự biết trước của Đức Chúa Trời, và quý vị đã mượn tay kẻ gian ác mà đóng đinh xử tử Ngài trên thập tự giá. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại, giải cứu Ngài khỏi nỗi thống khổ của sự chết, vì nó không thể giam giữ Ngài được. Bởi vua Đa-vít đã nói về Ngài: ‘Tôi luôn luôn thấy Chúa trước mặt tôi Vì Ngài ở bên phải tôi, Nên tôi sẽ không bị rúng động. Vì thế, lòng tôi vui mừng, lưỡi tôi hoan ca Thân thể tôi sẽ sống trong niềm hy vọng. Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi nơi Âm Phủ, Cũng chẳng cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống. Chúa sẽ làm cho tôi đầy dẫy sự vui mừng trước mặt Ngài.’2:28 Thi 16:8-11 Thưa các anh em, tôi có thể nói rõ về tổ phụ Đa-vít rằng người đã chết và được an táng, lăng tẩm người vẫn còn ở giữa chúng ta đến ngày nay. Nhưng người là một tiên tri nên biết Đức Chúa Trời đã hứa bằng một lời thề rằng Ngài sẽ đặt một hậu tự của người lên ngai.2:30 Thi 132:11 Thấy trước việc tương lai, vua Đa-vít nói về sự phục sinh của Chúa Cứu Thế2:31 Nt: “Xristos”, Đấng được xức dầu rằng: Ngài chẳng bị bỏ nơi Âm Phủ, thân thể Ngài không bị hư nát.2:31 Thi 16:10 Đức Chúa Trời đã khiến Đức Giê-su này sống lại, và tất cả chúng tôi đều là nhân chứng về sự kiện này. Vì thế, Ngài được đưa lên bên phải Đức Chúa Trời, nhận lãnh Thánh Linh từ Cha, như đã hứa, và đổ Thánh Linh ra như quý vị đang nghe thấy. Vì vua Đa-vít không lên trời nhưng lại nói: ‘Chúa phán cùng Chúa tôi: Hãy ngồi bên phải Ta Cho đến khi nào Ta đặt các kẻ thù nghịch con Dưới bệ chân con.’2:35 Thi 110:1 Vậy xin toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời đã lập Đức Giê-su mà quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá làm Chúa Tể và Chúa Cứu Thế.” Nghe xong, lòng họ đau nhói, nên hỏi Phê-rơ và các sứ đồ: “Anh em ơi, chúng tôi phải làm chi?” Phê-rơ đáp: “Hãy ăn năn, và mỗi người phải nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su mà chịu báp-tem để tội lỗi quý vị được tha thứ, rồi sẽ nhận được ân tứ Thánh Linh. Vì lời hứa đó dành sẵn cho quý vị, con cái quý vị và tất cả những người ở xa xôi, tức là những người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta kêu gọi.” Phê-rơ cũng dùng nhiều lời khác để cảnh cáo và khích lệ họ rằng: “Quý vị hãy thoát khỏi thế hệ băng hoại này.” Vậy, những người đáp ứng lời kêu gọi của Phê-rơ đều chịu báp-tem; hôm ấy số tín đồ tăng thêm ba ngàn người. Họ chuyên cần giữ lời giáo huấn của các sứ đồ, sự thông công với anh em, lễ bẻ bánh và các buổi cầu nguyện. Mọi người đều kinh sợ vì nhiều phép mầu và dấu lạ được các sứ đồ thực hiện. Tất cả các tín hữu đều hợp nhất với nhau, lấy mọi vật sở hữu làm của chung, bán tài sản của cải mà phân phát cho mọi tín hữu tùy theo nhu cầu của mỗi người. Hằng ngày, họ cứ đồng tâm chuyên cần đến đền thờ, họp nhau bẻ bánh từ nhà này sang nhà khác, dùng bữa với nhau cách vui vẻ rộng lượng, ca ngợi Đức Chúa Trời và được lòng tất cả mọi người. Mỗi ngày, Chúa tăng thêm số người được cứu. Người Què Được Chữa Lành Tại Cổng Đền Thờ Phê-rơ và Giăng đi lên đền thờ vào giờ cầu nguyện lúc ba giờ chiều. Một anh què từ lúc sơ sinh hằng ngày được khiêng đến đền thờ, đặt tại Cổng Đẹp để xin khách vào đền bố thí. Thấy Phê-rơ và Giăng bước vào đền thờ, anh xin họ cho ít tiền. Phê-rơ và Giăng đều chăm chú nhìn anh. Phê-rơ bảo: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây!” Anh què ngước nhìn hai người, mong được họ cho chút gì. Phê-rơ nói: “Bạc, vàng tôi không có, nhưng điều tôi có, xin tặng cho anh: Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su ở Na-xa-rét, anh hãy bước đi!” Phê-rơ nắm tay phải anh đỡ đứng dậy. Lập tức, bàn chân và xương mắt cá anh trở nên vững vàng, anh què nhảy lên, đứng dậy, bước vào đền thờ với hai sứ đồ, vừa đi, vừa nhảy và ca ngợi Đức Chúa Trời. Tất cả dân chúng đều thấy anh bước đi và ca ngợi Đức Chúa Trời. Họ nhận ra anh chính là người thường ngồi ăn xin tại Cổng Đẹp của đền thờ nên họ vô cùng kinh ngạc sửng sốt khi thấy việc này xảy ra. Anh đang nắm tay Phê-rơ và Giăng, tất cả dân chúng đều lấy làm lạ, chạy đến, tại chỗ gọi là hành lang Sa-lô-môn. Thấy thế, Phê-rơ bảo họ: “Đồng bào Y-sơ-ra-ên! Tại sao quý vị ngạc nhiên? Tại sao quý vị nhìn sững chúng tôi dường như chúng tôi cậy quyền năng hoặc đức độ của mình mà khiến người què này đi được. Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã tôn vinh đầy tớ Ngài là Đức Giê-su. Đồng bào đã nộp Ngài cho người ta xử tử, quý vị đã khước từ Ngài trước mặt Phi-lát khi ông ta quyết định phóng thích Ngài. Nhưng quý vị đã khước từ Đấng Thánh và công chính và xin Phi-lát ân xá tha cho một kẻ sát nhân. Quý vị đã giết Chúa Sự Sống, mà Đức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ kẻ chết; chúng tôi là nhân chứng về việc đó. Bởi đức tin trong danh Giê-su, người què mà quý vị thấy và biết đã được lành mạnh. Chính danh Giê-su và đức tin trong Ngài đã làm cho người què được chữa lành trước mặt tất cả quý vị. Bây giờ, thưa anh em, tôi biết anh em đã hành động cách vô ý thức, cũng như các nhà lãnh đạo của mình. Nhưng Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm điều Ngài đã báo trước qua môi miệng tất cả các nhà tiên tri rằng Chúa Cứu Thế của Ngài phải chịu đau thương. Vậy anh em hãy ăn năn, quay về Đức Chúa Trời, ngõ hầu tội lỗi của anh em được tẩy sạch, để thời kỳ tươi mới được đến từ Chúa, và để Đức Chúa Trời sai Chúa Cứu Thế Giê-su mà Ngài đã chọn sẵn từ trước, đến với anh em. Chúa Cứu Thế còn phải ở lại trên trời cho đến thời kỳ Đức Chúa Trời khôi phục vạn vật, như Ngài đã hứa từ lâu qua các tiên tri thánh của Ngài. Vì Môi-se đã nói: ‘Chúa là Đức Chúa Trời của anh em sẽ dấy lên giữa dân chúng một tiên tri như tôi; anh em phải nghe theo mọi lời Ngài dạy bảo. Nếu ai không nghe theo lời Ngài sẽ bị khai trừ ra khỏi dân chúng.’ Thật thế, tất cả các tiên tri từ Sa-mu-ên trở xuống, ai đã lên tiếng nói tiên tri, đều báo trước những ngày này. Anh em là con cháu của các tiên tri và của giao ước Đức Chúa Trời đã lập với các tổ phụ. Ngài đã bảo Áp-ra-ham: ‘Nhờ Hậu Tự con mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều sẽ được phước.’ Khi Đức Chúa Trời dấy Đầy Tớ Ngài lên, Ngài đã sai Người đến với anh em trước hết để ban phước cho anh em, bằng cách khiến cho mỗi người lìa bỏ con đường gian ác.” Phê-rơ và Giăng đang nói với dân chúng thì các vị tế lễ, viên sĩ quan chỉ huy vệ binh đền thờ và các người Sa-đu-sê chợt đến nơi. Họ rất bực mình vì các sứ đồ dạy bảo dân chúng và công bố rằng Đức Giê-su đã sống lại nên sẽ có sự sống lại cho người chết. Họ bắt Phê-rơ và Giăng, nhưng trời đã tối, nên đem tạm giam vào ngục qua đêm. Tuy nhiên, nhiều người đã được nghe lời Chúa thì tin. Số nam môn đệ lên đến năm ngàn. Hôm sau, các nhà lãnh đạo, các trưởng lão và các giáo sư Kinh Luật hội họp tại Giê-ru-sa-lem. Có trưởng tế An-na, các ông Cai-pha, Giăng, A-lịch-sơn và các người khác trong gia đình vị trưởng tế tham dự. Họ cho giải hai sứ đồ đến đứng giữa họ rồi tra vấn: “Các anh nhờ quyền năng nào và nhân danh ai mà làm việc này?” Lúc ấy Phê-rơ được đầy dẫy Thánh Linh, đáp lời: “Thưa quý vị lãnh đạo dân chúng và quý vị trưởng lão! Hôm nay, chúng tôi bị tra xét về một việc lành là giúp một người tàn tật, và quý vị hỏi nhờ đâu mà người ấy được lành. Xin tất cả quý vị và toàn dân Y-sơ-ra-ên biết cho rằng đó là nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, người Na-xa-rét! Quý vị đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá nhưng Đức Chúa Trời làm cho Ngài sống lại từ kẻ chết. Nhờ Danh Ngài mà người này được lành và đứng trước mặt quý vị. Ngài là Tảng Đá đã bị quý vị là những thợ nề xây nhà khinh dể, Nhưng lại trở thành Tảng Đá đầu góc nhà.4:11 Thi 118:22 Không có sự cứu rỗi trong một ai4:12 Kể cả các thần linh hay giáo chủ khác cả, vì dưới trời không có danh nào khác được ban cho loài người để chúng ta phải nhờ Danh ấy mà được cứu.” Khi thấy Phê-rơ và Giăng can đảm như thế, và nhận xét rằng hai ông là người tầm thường, kém học thức, họ đều kinh ngạc nhưng phải nhìn nhận rằng hai ông đã từng ở với Đức Giê-su. Tuy nhiên vì thấy người què được chữa lành đang đứng với hai ông nên họ chẳng chối cãi gì được. Họ liền ra lệnh cho hai ông ra khỏi phòng họp hội đồng, rồi bàn luận với nhau rằng: “Chúng ta sẽ làm gì với mấy người này đây? Vì họ đã làm một dấu lạ hiển nhiên, tất cả dân chúng Giê-ru-sa-lem đều biết rõ, nên chúng ta không thể nào chối cãi. Nhưng muốn cho việc này đừng lan rộng thêm giữa dân chúng, chúng ta hãy đe dọa, đừng cho họ nhắc đến Danh này nữa!” Vậy họ gọi hai ông vào và cấm tuyệt đối không được nói hay dạy về Danh Đức Giê-su nữa. Nhưng Phê-rơ và Giăng đáp: “Điều nào phải lẽ hơn? Trước mặt Đức Chúa Trời, nên vâng lời quý vị hay là vâng lời Đức Chúa Trời? Xin quý vị vui lòng thẩm định. Nhưng chúng tôi không thể nào không nói lên những điều chúng tôi đã nghe và thấy.” Họ đe dọa thêm nữa rồi phóng thích hai người. Họ không tìm được cách nào trừng phạt hai người vì toàn thể dân chúng đều tôn vinh Đức Chúa Trời về việc vừa xảy ra. Người đàn ông được phép lạ chữa lành đã hơn bốn mươi tuổi. Sau khi được phóng thích, hai người quay về với anh em mình và thuật lại những lời các thượng tế và trưởng lão đe dọa. Nghe xong, họ đồng lòng lớn tiếng cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Chúa, Ngài đã sáng tạo trời, đất, biển và vạn vật. Chúa đã nhờ Đức Thánh Linh phán dạy qua môi miệng Đa-vít, đầy tớ Ngài, cũng là tổ phụ chúng tôi: ‘Tại sao các nước nổi giận Và các dân âm mưu vô ích? Các vua trên thế gian Và các lãnh tụ họp nhau Chống nghịch Chúa Và Chúa Cứu Thế của Ngài.’4:26 Thi 2:1-2 Thật thế, Hê-rốt và Bôn-xơ Phi-lát thông đồng với các dân ngoại quốc và người Y-sơ-ra-ên ngay trong thành phố này mà chống nghịch Đức Giê-su, Đầy Tớ Thánh của Chúa đã được Chúa xức dầu để thực hiện những điều mà bàn tay Chúa và ý chỉ Chúa đã ấn định từ trước. Và bây giờ, lạy Chúa, xin Chúa đoái xem các sự đe dọa của họ và ban cho các đầy tớ Ngài lòng đầy dũng cảm để rao giảng lời Chúa. Xin Chúa ra tay chữa bệnh và làm các dấu lạ, phép mầu nhân danh Đầy Tớ Thánh Ngài là Đức Giê-su.” Họ đang cầu nguyện thì phòng họp rúng động. Tất cả đều được đầy dẫy Thánh Linh, rao giảng lời Đức Chúa Trời cách dũng cảm. Bấy giờ cả hội chúng tín hữu đều đồng tâm nhất trí, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng kể mọi vật là của chung. Các sứ đồ cậy quyền năng lớn lao cứ làm chứng về sự sống lại của Chúa Giê-su và tất cả đều được ân sủng dồi dào. Trong các tín hữu, không còn ai nghèo thiếu, vì những người có ruộng, có nhà đều bán đi, đem tiền bán tài sản đặt nơi chân các sứ đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu cá nhân. Giô-sép, người được các sứ đồ gọi là Ba-na-ba nghĩa là “Con Trai Niềm An Ủi”, thuộc dòng họ Lê-vi, sinh trưởng tại đảo Síp, bán đám ruộng của mình và đem số tiền đặt nơi chân các sứ đồ. A-na-nia Và Sa-phi-ra Nhưng có một người tên A-na-nia cùng vợ là Sa-phi-ra bán một tài sản, giữ lại một phần tiền thu được, rồi đem số tiền còn lại đặt nơi chân các sứ đồ. (Người vợ cũng biết rõ việc này.) Phê-rơ hỏi: “Ông A-na-nia, sao Sa-tan đã đầy dẫy lòng ông đến nỗi ông nói dối với Đức Thánh Linh mà giữ lại một phần tiền bán đất như thế? Trước khi bán, tài sản ấy không thuộc quyền sở hữu của ông sao? Sau khi bán rồi, tiền đó vẫn thuộc quyền sử dụng của ông kia mà? Tại sao ông chủ tâm hành động như thế? Không phải ông dối người đâu mà dối Đức Chúa Trời đó!” Nghe các lời đó, A-na-nia ngã xuống, tắt thở. Tất cả những ai nghe tin đều khiếp sợ. Nhưng các thanh niên đứng dậy liệm xác A-na-nia và khiêng đi chôn. Độ ba giờ sau, vợ A-na-nia bước vào, nhưng vẫn chưa biết việc mới xảy ra. Phê-rơ hỏi bà: “Bà bán đất được bao nhiêu đó, phải không? Xin bà cho biết!” Bà đáp: “Vâng, chỉ được chừng ấy thôi!” Phê-rơ nói: “Tại sao ông bà đồng mưu thử Đức Thánh Linh của Chúa? Kìa chân của những kẻ chôn chồng bà đã về tới cửa, họ sẽ khiêng bà đi luôn!” Lập tức, bà ngã xuống nơi chân Phê-rơ, tắt thở. Các thanh niên bước vào, thấy bà đã chết, nên họ khiêng đi chôn bên cạnh mộ chồng bà. Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe tin này đều rất khiếp sợ. Chúa dùng tay các sứ đồ thực hiện nhiều dấu lạ và phép mầu giữa dân chúng. Tất cả các tín hữu đồng tâm hội họp tại hành lang Sa-lô-môn. Nhưng người ngoài không ai dám tham dự, mặc dù các tín hữu đều được dân chúng ca ngợi. Và số người tin nhận Chúa ngày càng gia tăng đông đảo gồm cả nam lẫn nữ, đến nỗi người ta đem những người bệnh ra ngoài đường phố, đặt trên giường chõng, để khi Phê-rơ đi qua, ít ra bóng ông cũng ngả trên một vài người. Dân chúng các thành phố quanh Giê-ru-sa-lem cũng họp nhau khiêng những người bệnh và những người bị các tà linh hành hạ, và tất cả đều được chữa lành. Lúc ấy, vị trưởng tế và tất cả các bạn đồng sự thuộc phái Sa-đu-sê, đều đầy lòng ganh tị, đứng lên bắt các sứ đồ tống giam vào khám công. Nhưng ban đêm một thiên sứ của Chúa mở các cửa khám, dẫn họ ra ngoài và bảo: “Các ông hãy đi vào đền thờ, đứng đó rao truyền cho dân chúng tất cả những lời của sự sống!” Nghe theo lời dặn bảo, các sứ đồ vào trong đền thờ lúc trời mới rạng đông, bắt đầu dạy dân chúng. Khi vị trưởng tế và các bạn đồng sự đến, họ liền triệu tập Hội Đồng và toàn thể viện trưởng lão Y-sơ-ra-ên, rồi sai người vào khám giải các sứ đồ đến. Tuy nhiên, khi vào trong khám các cảnh vệ không thấy các sứ đồ đâu cả, liền trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy khám đóng chặt, hoàn toàn an ninh, bọn lính canh đang đứng gác khắp các cổng, nhưng khi mở cửa khám, chúng tôi chẳng tìm thấy một tên nào cả!” Nghe lời báo cáo, viên sĩ quan chỉ huy vệ binh đền thờ và các thượng tế hoang mang, không hiểu việc này sẽ diễn biến thế nào. Bỗng có người đến báo cáo: “Kìa, những người quý vị tống giam vào khám đang đứng trong đền thờ dạy dân chúng!” Viên sĩ quan chỉ huy đội tuần cảnh liền đem lính đi bắt các sứ đồ nhưng không dùng bạo lực vì sợ dân chúng ném đá. Họ giải các sứ đồ đến hầu trước Hội Đồng. Vị trưởng tế tra vấn: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các anh dạy dỗ về Danh này, thế mà các anh lại làm cho thành Giê-ru-sa-lem đầy tràn đạo giáo của các anh. Các anh định đổ tội giết Người ấy cho chúng ta sao?” Phê-rơ và các sứ đồ đáp: “Phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời loài người! Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã khiến Đức Giê-su sống lại. Người đã bị quý vị giết chết bằng cách treo trên cây gỗ. Chính Người lại được Đức Chúa Trời tôn lên làm Đấng Lãnh Đạo và Đấng Cứu Thế ở bên phải Đức Chúa Trời, để đem lại lòng ăn năn cho dân Y-sơ-ra-ên để họ được tha tội. Chính chúng tôi đã chứng kiến các sự kiện này, nên xin làm nhân chứng cùng với Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời ban cho những người vâng lời Ngài.” Nghe xong các nhân viên Hội Đồng đều tức giận, quyết định giết các sứ đồ. Nhưng một người Pha-ri-si tên Ga-ma-liên, một giáo sư Kinh Luật được dân tôn kính, đứng dậy giữa Hội Đồng, ra lệnh đem các sứ đồ ra ngoài trong chốc lát, rồi phát biểu: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin quý vị thận trọng trong việc xử trí những người này. Trước đây, Thêu-đa nổi dậy, xưng hùng xưng bá; có độ bốn trăm người theo nó; nhưng nó bị giết, tất cả đồng bọn đều bị tan rã, không còn gì cả. Sau đó, Giu-đa, người Ga-li-lê, nổi dậy trong thời kỳ kiểm tra dân số, lôi cuốn được nhiều người theo mình; nhưng nó cũng bỏ mạng và tất cả đồng bọn đều bị phân tán. Vậy, bây giờ tôi khuyên quý vị: Hãy tránh xa những người này đi, cứ để mặc họ; vì nếu mưu định và công việc này là của loài người thì sẽ bị tiêu diệt; nhưng nếu là của Đức Chúa Trời thì quý vị không tài nào tiêu diệt được, mà còn trở thành những kẻ chiến đấu chống nghịch Đức Chúa Trời!” Hội Đồng nghe theo lời ông, gọi các sứ đồ vào, sai đánh đòn, và cấm nhặt không cho nói về Danh Giê-su, rồi phóng thích. Các sứ đồ rời Hội Đồng ra về, hân hoan vì được kể là xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Chúa. Hằng ngày, dù ở trong đền thờ hoặc đi từ nhà này sang nhà khác, họ cứ tiếp tục dạy dỗ và truyền giảng về Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế. Cuộc Cứu Tế Người Nghèo Khổ Thời ấy, khi số môn đệ Chúa gia tăng gấp bội, các tín hữu Hy Lạp gốc Do Thái phàn nàn về người Do Thái bản xứ vì các quả phụ trong nhóm họ bị bỏ bê trong việc cung cấp vật thực hằng ngày. Mười hai sứ đồ triệu tập toàn thể tín hữu tuyên bố: “Bỏ việc phục vụ Lời của Đức Chúa Trời để đi hầu bàn là điều không nên làm. Vậy thưa anh em, xin hãy chọn giữa vòng mình bảy người được chứng nhận là tốt, đầy dẫy Thánh Linh và khôn ngoan; chúng tôi sẽ giao trách nhiệm này. Còn chúng tôi sẽ chuyên tâm cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa.” Toàn thể tín hữu rất hài lòng với đề nghị này. Họ chọn Ê-tiên (người đầy dẫy đức tin và Thánh Linh) Phi-líp, Bô-cô-rơ, Ni-ca-nô, Ty-môn, Bác-mê-na, và Ni-cô-la (người tân tòng quê ở An-ti-ốt), rồi trình diện họ trước các sứ đồ. Các sứ đồ cầu nguyện và đặt tay trên các người ấy. Đạo của Đức Chúa Trời ngày càng phát triển, số tín hữu tại Giê-ru-sa-lem gia tăng nhiều lắm, cả một số đông các thầy tế lễ cũng thuận phục Đạo. Ê-tiên đầy dẫy ân sủng và quyền năng Đức Chúa Trời, thực hiện nhiều phép mầu và dấu lạ vĩ đại giữa dân chúng. Một số hội viên của Hội Đường Tự Do hợp với các người ở Sy-ren, A-lê-xan-đơ-ri, Si-li-si và Tiểu Á tranh luận với Ê-tiên. Nhưng họ không chống lại nổi trí khôn cùng Đức Thánh Linh mà Ê-tiên nhờ cậy để nói; nên họ ngầm xúi giục mấy người tố cáo: “Chúng tôi đã nghe nó xúc phạm đến Môi-se và Đức Chúa Trời!” Vậy họ sách động quần chúng, các trưởng lão và các giáo sư Kinh Luật, rồi bắt Ê-tiên giải ra trước Hội Đồng và đặt nhân chứng khai man rằng: “Tên này liên tục nói những lời chống nghịch Đền Thánh và Kinh Luật; vì chúng tôi nghe nó bảo: ‘Giê-su, người Na-xa-rét, sẽ phá hủy nơi này và cải cách phong tục mà Môi-se đã truyền cho chúng ta.’ ” Tất cả các hội viên có mặt trong Hội Đồng chăm chú nhìn Ê-tiên, thấy gương mặt ông sáng rực như dung nhan thiên sứ. Ê-tiên Trước Hội Đồng Vị trưởng tế hỏi: “Các lời tố cáo đó có đúng không?” Ê-tiên đáp: “Thưa quý anh, quý cha, xin nghe tôi trình bày. Đức Chúa Trời vinh quang đã hiện ra gặp tổ phụ chúng ta là Áp-ra-ham khi người còn ở xứ Lưỡng Hà, trước khi cư trú tại Cha-ran và bảo người: ‘Hãy ra khỏi đất nước ngươi và từ giã bà con ngươi mà đi vào miền đất mà Ta sẽ chỉ cho.’7:3 Sáng 12:1 Áp-ra-ham liền ra khỏi xứ Canh-đê và đến cư trú tại Cha-ran. Sau khi thân phụ qua đời, Đức Chúa Trời khiến người di cư qua miền đất này, là xứ quý vị đang ở. Chúa chẳng cho người sản nghiệp nào, dù một mảnh đất đặt bàn chân cũng không, nhưng Chúa hứa sẽ cho người và dòng dõi người làm chủ miền đất này, mặc dù lúc ấy người chưa có con. Đức Chúa Trời phán dạy rằng: ‘Dòng dõi con sẽ kiều ngụ trong đất nước người, sẽ bị họ bắt làm nô lệ và bạc đãi suốt bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ phán xét dân tộc mà họ phục dịch. Sau đó, dòng dõi con sẽ ra đi và thờ phượng Ta tại nơi này.’7:7 Sáng 15:13-14 Rồi Chúa lập giao ước cắt bì với người. Vậy Áp-ra-ham sinh Y-sác và cắt bì cho con vào ngày thứ tám. Y-sác sinh Gia-cốp, Gia-cốp sinh mười hai con là các trưởng tộc Y-sơ-ra-ên. Các trưởng tộc ganh tị với Giô-sép nên bán người qua Ai-cập. Nhưng Đức Chúa Trời ở cùng người và giải thoát người khỏi tất cả các hoạn nạn, ban cho người được ân huệ và khôn ngoan trước mặt Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Pha-ra-ôn cử người làm tể tướng thống lãnh Ai-cập và cả hoàng gia. Nhưng nạn đói xảy ra khắp đất Ai-cập và Ca-na-an, gây tai họa lớn, các tổ phụ chúng ta không tìm ra thực phẩm nữa. Nghe tin Ai-cập còn lúa gạo, Gia-cốp sai các trưởng tộc chúng ta xuống đó lần thứ nhất. Đến lần thứ nhì, Giô-sép tiết lộ cho các anh em biết mình là ai, và Pha-ra-ôn được biết về gia đình Giô-sép. Giô-sép sai người mời Gia-cốp cha mình và toàn thể gia đình gồm bảy mươi lăm người tất cả. Gia-cốp xuống Ai-cập. Sau đó, người và các trưởng tộc đều qua đời. Người ta dời mộ họ về Si-chem, cải táng tại khu mộ mà Áp-ra-ham đã trả tiền mua của các con trai Hê-mô ở Si-chem. Gần đến thời kỳ Đức Chúa Trời thực thi lời hứa với Áp-ra-ham, dân số chúng ta tại Ai-cập gia tăng rất nhiều. Rồi một vua khác lên ngôi trị vì Ai-cập, chẳng biết gì đến Giô-sép. Vua này thi hành chính sách quỷ quyệt đối với đồng bào ta, bạc đãi các tổ phụ ta bằng cách buộc họ phải vứt bỏ các trẻ sơ sinh cho chết. Đến thời điểm ấy, Môi-se sinh ra, xinh đẹp trước mặt Đức Chúa Trời, được nuôi ba tháng trong nhà cha mình đến khi phải bị vứt bỏ, Môi-se được công chúa Ai-cập đem về nuôi dưỡng như con ruột. Người được giáo dục trong mọi ngành tri thức Ai-cập, lại có khả năng trong lời nói và việc làm. Nhưng được bốn mươi tuổi, lòng nảy ra ý định thăm viếng anh em đồng bào là dòng dõi Y-sơ-ra-ên, chợt thấy một đồng bào bị hà hiếp, ông liền bênh vực và báo thù bằng cách giết người Ai-cập. Ông tưởng đồng bào hiểu rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng mình giải cứu họ nhưng họ không hiểu. Hôm sau, Môi-se bắt gặp mấy người đang đánh nhau, liền thử giải hòa hai bên: ‘Các ông ơi, đã là anh em, sao nỡ hại nhau?’ Nhưng người đang ức hiếp anh em lại xô Môi-se ra mà bảo: ‘Ai cử anh làm lãnh tụ và thẩm phán cho chúng tôi? Hay anh muốn giết tôi như giết người Ai-cập hôm qua?’7:28 Xuất 2:14 Nghe lời ấy, Môi-se bỏ trốn qua xứ Ma-đi-an mà kiều ngụ. Tại đó, ông có hai con trai. Bốn mươi năm trôi qua, Môi-se gặp một thiên sứ hiện ra trong một ngọn lửa, giữa bụi gai cháy phừng tại đồng hoang gần núi Si-nai. Môi-se thấy khải tượng ấy, ngạc nhiên lại gần để xem, bỗng nghe tiếng Chúa phán dạy: ‘Ta là Đức Chúa Trời của các tổ phụ con, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp!’ Nhưng Môi-se run sợ, không dám nhìn. Chúa bảo: ‘Con hãy cởi dép ra vì nơi con đứng là đất thánh. Thật Ta đã thấy rõ dân Ta bị áp bức tại Ai-cập. Ta đã nghe tiếng rên siết của họ, và xuống giải cứu họ. Bây giờ, hãy đến đây Ta sẽ sai con vào Ai-cập.’ Chính Môi-se này mà đồng bào khước từ: ‘Ai cử anh làm lãnh tụ và thẩm phán?’ thì nay Đức Chúa Trời sai làm lãnh tụ và cứu tinh, do thiên sứ đã hiện ra với người trong bụi gai. Chính người đã đem dân ta ra, làm những phép mầu và dấu lạ trong đất Ai-cập, trên Hồng Hải và trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. Chính Môi-se này là người đã bảo dân Y-sơ-ra-ên: ‘Đức Chúa Trời sẽ dấy lên cho các người từ giữa anh em một tiên tri giống như tôi.’ Đây là người đã ở với hội chúng trong đồng hoang, và thiên sứ đã nói chuyện với người trên núi Si-nai như với các tổ phụ chúng ta, và người đã tiếp nhận lời hằng sống để truyền lại cho đồng bào. Tuy nhiên, tổ phụ chúng ta không chịu vâng lời người, nhưng từ bỏ người và trở lòng hướng về Ai-cập. Họ bảo A-rôn: Ông hãy làm ra các thần để hướng dẫn chúng tôi, vì ông Môi-se này là người từng lãnh đạo chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập đã gặp phải chuyện gì chúng tôi không rõ! Đó là lúc họ làm ra thần tượng bò con, dâng tế lễ cho thần và làm lễ ăn mừng tượng họ đã làm ra. Nhưng Đức Chúa Trời xoay lưng, bỏ mặc họ thờ lạy các tinh tú trên trời, như đã chép trong Kinh Tiên Tri: ‘Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên! Các ngươi có dâng các thú vật và sinh tế cho Ta Suốt bốn mươi năm trong đồng hoang không? Không có! Nhưng các ngươi đã khiêng kiệu thờ thần Mô-lóc Và ngôi sao thần Rom-pha của các ngươi, Là những thần tượng các ngươi làm ra để thờ phượng. Vì thế, Ta sẽ lưu đày các ngươi qua bên kia xứ Ba-by-lôn!’7:43 Am 5:25-27 Các tổ phụ chúng ta giữ Lều Chứng Cớ với họ trong đồng hoang, dựng lên theo lệnh đã truyền cho Môi-se, đúng theo kiểu mẫu mà ông đã xem thấy. Sau khi nhận được Lều Chứng Cớ, các tổ phụ chúng ta cùng Giô-suê đem lều ấy theo trong cuộc chiếm cứ các xứ mà dân cư đã bị Đức Chúa Trời tống đuổi trước mặt họ. Lều còn trong đất nước cho đến thời Đa-vít, là người được ân sủng trước mặt Đức Chúa Trời. Ông xin phép xây cất một đền thờ cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Nhưng Sa-lô-môn mới là người xây đền thờ cho Ngài. Tuy nhiên, Đấng Chí Cao không ngự trong đền đài do loài người xây dựng, như một tiên tri của Chúa đã nói: ‘Bầu trời là ngai Ta, Và đất là bệ chân Ta. Các ngươi sẽ cất cho Ta loại nhà nào? Chúa phán hỏi như thế. Nơi nào là chỗ Ta nghỉ ngơi? Không phải bàn tay Ta sáng tạo mọi vật này sao?’7:50 Isa 66:1-2 Này, những người cứng cổ, những người có lòng và tai chưa chịu cắt bì, luôn luôn chống cự Thánh Linh, giống hệt như tổ phụ mình. Có tiên tri nào của Chúa mà tổ phụ các ông không bức hại? Họ đã sát hại những người báo trước sự xuất hiện của Đấng Công Chính mà nay các ông lại phản bội và giết Ngài đi. Các ông đã tiếp nhận Kinh Luật do các thiên sứ ban hành nhưng lại không vâng giữ!” Nghe đến đây, họ giận dữ, nghiến răng nhìn Ê-tiên. Nhưng Ê-tiên đầy dẫy Thánh Linh, ngước nhìn lên trời, thấy vinh quang của Đức Chúa Trời và Đức Giê-su đang đứng bên phải Đức Chúa Trời. Ông nói: “Kìa, tôi thấy bầu trời mở ra và Con Người đang đứng bên phải Đức Chúa Trời!” Họ liền bịt tai, hét lên, chạy lại bắt Ê-tiên, kéo ra ngoài thành phố và ném đá ông. Các nhân chứng cởi áo đặt dưới chân một thanh niên tên Sau-lơ. Đang khi bị họ ném đá, Ê-tiên cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, xin tiếp nhận linh hồn con!” Rồi ông quỳ xuống, kêu xin rất lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng quy tội này cho họ!” Cầu nguyện như thế xong thì ông ngủ. Sau-lơ Bức Hại Hội Thánh Sau-lơ tán thành việc giết Ê-tiên. Trong lúc ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem bắt đầu bị bắt bớ dữ dội. Ngoại trừ các sứ đồ, tất cả các tín hữu đều phải chạy tan lạc trong khắp miền Giu-đê và Sa-ma-ri. Nhưng có những người tin kính, an táng Ê-tiên và khóc thương ông rất nhiều. Nhưng Sau-lơ phá hoại Hội Thánh, đi lùng từ nhà này qua nhà khác, bắt các tín hữu cả nam lẫn nữ và tống giam vào ngục. Phúc Âm Được Truyền Bá Ở Xứ Sa-ma-ri Vậy những người di tản đi đến đâu cũng truyền giảng Phúc Âm. Phi-líp xuống một thành phố miền Sa-ma-ri, truyền giảng Chúa Cứu Thế cho dân chúng. Đoàn dân đông rất chú ý đến lời Phi-líp giảng vì mọi người đều nghe ông giảng và thấy các dấu lạ ông làm. Nhiều tà linh hét lên mà xuất khỏi những người bị ám. Nhiều người bại liệt và què quặt được chữa lành, nên thành phố tràn ngập niềm vui. Một người tên Si-môn trước kia hành nghề phù thủy trong thành phố, đã làm cho cả dân Sa-ma-ri đều kinh ngạc. Ông tự xưng là bậc đại tài. Mọi người trong thành từ nhỏ đến lớn đều trọng vọng và ca tụng: “Ông này có quyền năng của Thần gọi là Đại Năng.” Họ nghe theo ông vì lâu nay ông đã trổ tài ma thuật làm cho họ phải kinh ngạc. Nhưng khi nghe Phi-líp truyền giảng Phúc Âm về Nước Đức Chúa Trời và danh Chúa Cứu Thế Giê-su thì họ đều tin nhận và chịu phép báp-tem, cả nam lẫn nữ. Chính Si-môn cũng tin và sau khi chịu phép báp-tem, cứ theo sát bên Phi-líp. Khi Si-môn thấy các dấu lạ và việc quyền năng vĩ đại Phi-líp làm thì ngạc nhiên vô cùng. Nghe tin dân chúng Sa-ma-ri đã tiếp nhận Đạo Chúa, các sứ đồ ở Giê-ru-sa-lem liền sai Phê-rơ và Giăng xuống thăm. Đến nơi, hai ông cầu nguyện cho các tín hữu nhận lãnh Thánh Linh, vì Thánh Linh chưa giáng xuống trên người nào cả; họ chỉ mới chịu phép báp-tem nhân danh Chúa Giê-su mà thôi. Rồi hai ông đặt tay trên các tín hữu thì họ đều nhận lãnh Thánh Linh. Si-môn nhận thấy hễ các sứ đồ đặt tay trên ai thì Thánh Linh được ban cho người ấy, liền dâng tiền bạc cho họ và yêu cầu: “Xin quý ông cho tôi uy quyền này để tôi đặt tay trên ai thì người đó cũng nhận được Thánh Linh!” Phê-rơ đáp: “Bạc của anh cũng hãy hư vong với anh! Vì anh tưởng có thể lấy tiền bạc mà mua ân tứ của Đức Chúa Trời! Anh chẳng được dự phần hoặc hưởng điều gì trong chức vụ này, vì lòng anh không ngay thẳng trước Đức Chúa Trời. Anh hãy ăn năn về điều ác này và cầu nguyện với Chúa có lẽ Ngài sẽ tha thứ cho anh về tư tưởng ấy trong lòng. Vì tôi thấy anh đầy dẫy mật đắng và đang làm nô lệ cho tội lỗi.” Si-môn thưa: “Xin các ông cầu nguyện Chúa giúp tôi, để tôi khỏi bị các điều ông nói đó!” Sau khi làm chứng và công bố Đạo Chúa, Phê-rơ và Giăng trở về Giê-ru-sa-lem, vừa đi vừa truyền giảng Phúc Âm trong nhiều làng Sa-ma-ri. Phi-líp Gặp Thái Giám Ê-thi-ô-bi Một thiên sứ của Chúa bảo Phi-líp: “Ông hãy xuống miền nam, đến con đường hoang vắng chạy từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-xa.” Phi-líp đứng dậy lên đường. Kìa, có một người Ê-thi-ô-bi là thái giám của Can-đác, nữ vương Ê-thi-ô-bi, làm tổng giám đốc ngân khố. Ông đã lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng và trên đường về nước, đang ngồi trên xe ngựa mà đọc sách tiên tri I-sa. Thánh Linh bảo Phi-líp: “Con hãy lại gần và theo sát xe ấy!” Phi-líp chạy đến, nghe ông ta đọc sách tiên tri I-sa, liền hỏi: “Ông có hiểu những điều ông đang đọc đó không?” Thái giám đáp: “Nếu không ai hướng dẫn làm sao tôi hiểu được?” Thái giám mời Phi-líp lên xe ngồi với mình. Đoạn Kinh Thánh thái giám đang đọc là: Người bị dắt đi như chiên đến lò thịt, Như chiên câm trước mặt kẻ hớt lông; Thế mà Người chẳng mở miệng. Trong khi bị sỉ nhục, quyền lợi của Người bị tước đoạt. Ai sẽ nói đến dòng dõi Người? Vì mạng sống Người bị cất đi khỏi mặt đất.8:33 Isa 53:7-8 Thái giám hỏi Phi-líp: “Tôi xin hỏi ông: Tiên tri của Chúa nói về ai đây? Về chính ông ta hay về ai khác?” Phi-líp bắt đầu từ đoạn Kinh Thánh ấy mà truyền giảng về Đức Giê-su cho thái giám. Đang đi giữa đường, đến chỗ có nước, thái giám hỏi Phi-líp: “Sẵn có nước đây! Có điều gì ngăn trở tôi chịu phép báp-tem không?” (Phi-líp nói: “Nếu ông hết lòng tin ông có thể chịu phép báp-tem.” Thái giám đáp: “Tôi tin Chúa Cứu Thế Giê-su là Con Đức Chúa Trời.”)8:37 Một số bản cổ thêm câu 37 Thái giám ra lệnh dừng xe lại. Phi-líp và thái giám cùng xuống dưới nước; Phi-líp làm phép báp-tem cho thái giám. Khi lên khỏi nước, Thánh Linh đem Phi-líp đi mất, thái giám không còn thấy người nữa, nhưng cứ hân hoan tiếp tục cuộc hành trình. Thấy mình đang ở A-xốt, Phi-líp đi qua và truyền giảng Phúc Âm trong tất cả các thành trên con đường đến tận Sê-sa-rê. Sau-lơ Hối Cải Trong thời gian ấy, Sau-lơ cứ đe dọa tàn sát các môn đệ của Chúa; ông đến với vị trưởng tế, xin các ủy nhiệm thư gửi cho các hội đường Đa-mách để khi qua đó tìm được người nào theo Đạo Chúa cả nam lẫn nữ, thì trói lại giải về Giê-ru-sa-lem. Nhưng đang đi đường đến gần Đa-mách, bỗng có ánh sáng từ trời chiếu lòa chung quanh Sau-lơ. Ông té xuống đất, và nghe có tiếng gọi mình: “Sau-lơ! Sau-lơ! Sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông thưa: “Lạy Chúa, Ngài là ai?” “Ta chính là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ! Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào trong thành phố, ngươi sẽ được chỉ bảo những điều phải làm.” Các bạn đồng hành của ông đều đứng yên lặng không nói được vì nghe tiếng mà không thấy ai cả. Sau-lơ đứng dậy, mở mắt ra, nhưng chẳng thấy gì hết. Người ta cầm tay ông dắt vào thành Đa-mách. Suốt ba ngày, ông bị mù, không ăn uống gì. Tại Đa-mách, có một môn đệ của Chúa tên là A-na-nia. Trong khải tượng, Chúa gọi: “A-na-nia!” Ông thưa: “Lạy Chúa, có con đây!” Chúa bảo: “Con hãy đứng dậy đến Phố Thẳng, tìm trong nhà Giu-đa một người tên Sau-lơ quê ở Tạc-sơ, vì người đang cầu nguyện và đã thấy trong khải tượng một người tên A-na-nia bước vào đặt tay trên mình để được sáng mắt lại.” A-na-nia thưa: “Lạy Chúa, con đã nghe nhiều người nói về người này, về bao nhiêu việc ác ông ta đã làm cho các thánh đồ tại Giê-ru-sa-lem. Bây giờ ở đây, ông ta đã được các thượng tế ủy quyền để bắt giam tất cả những người kêu cầu danh Chúa!” Nhưng Chúa bảo A-na-nia: “Con cứ đi, vì người này là một lợi khí Ta đã chọn để truyền bá danh Ta trước mặt các dân tộc ngoại quốc, các vua và con dân Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ cho Sau-lơ biết phải chịu bao nhiêu đau khổ vì danh Ta.” A-na-nia ra đi, bước vào nhà ấy, đặt tay trên Sau-lơ mà bảo: “Anh Sau-lơ! Chúa đã sai tôi đến, chính Đức Giê-su đã hiện ra với anh trên con đường anh đi đến đây, để anh được sáng mắt lại và đầy dẫy Thánh Linh!” Lập tức, có vật gì như vảy cá rơi ra khỏi mắt Sau-lơ nên ông thấy được. Ông liền đứng dậy, chịu phép báp-tem. Sau khi ăn uống, sức khỏe ông được bình phục. Sau-lơ Truyền Giảng Tại Đa-mách Sau-lơ ở lại vài ngày với các môn đệ Chúa tại Đa-mách. Lập tức ông vào các hội đường truyền giảng rằng Đức Giê-su chính là Con Đức Chúa Trời. Tất cả những người nghe đều sửng sốt bảo: “Không phải ông này đã giết hại những người cầu khẩn Danh đó tại Giê-ru-sa-lem và đến đây nhằm mục đích bắt trói bọn ấy giải về cho các thượng tế sao?” Nhưng Sau-lơ ngày càng đầy quyền năng bắt bẻ những người Do Thái tại Đa-mách, lập luận chứng minh rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Nhiều ngày trôi qua, người Do Thái bàn kế giết Sau-lơ, nhưng ông biết được âm mưu đó. Họ canh giữ rất nghiêm mật các cổng thành cả ngày lẫn đêm để bắt giết ông. Nhưng ban đêm, các môn đệ Chúa đem ông đặt vào cái thúng dòng dây thả xuống bên ngoài tường thành. Về đến Giê-ru-sa-lem, ông cố gắng gia nhập với các môn đệ Chúa nhưng tất cả đều nghi sợ, không tin rằng ông là môn đệ thật. Nhưng Ba-na-ba nhận ông, đưa đến gặp các sứ đồ và tường thuật cách ông được thấy Chúa trên đường, được Chúa phán dạy và cách ông mạnh dạn truyền giảng tại Đa-mách nhân danh Đức Giê-su. Vậy, Sau-lơ ở lại với họ, tự do ra vào thành Giê-ru-sa-lem, mạnh dạn truyền giảng trong danh Chúa. Ông cũng nói chuyện và tranh luận với những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp nhưng họ tìm cách ám sát ông. Được tin ấy, các anh em tín hữu đưa ông xuống Sê-sa-rê rồi phái đi Tạc-sơ. Vì thế, Hội Thánh khắp vùng Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri được bình an một thời gian. Hội Thánh được xây dựng, sống trong sự kính sợ Chúa, và nhờ Đức Thánh Linh nâng đỡ, số tín hữu ngày càng gia tăng. Phê-rơ Thăm Ly-đa Và Giốp-bê Phê-rơ đi khắp nơi, một lần kia ông đến thăm các thánh đồ tại Ly-đa. Tại đây, ông gặp một người bại tên Ê-nê đau liệt giường đã tám năm. Phê-rơ bảo: “Anh Ê-nê! Chúa Cứu Thế Giê-su chữa lành cho anh! Anh hãy đứng dậy, dọn giường đi!” Lập tức, Ê-nê đứng dậy. Tất cả dân chúng ở Ly-đa và Sa-rôn thấy Ê-nê lành bệnh đều quay về với Chúa. Tại Giốp-bê, có một môn đồ tên là Ta-bi-tha, nghĩa là Hoàng Dương, thường làm việc thiện và cứu giúp người nghèo khổ. Lúc ấy, bà mắc bệnh và qua đời. Người ta tắm rửa xác bà và đặt nằm trong một phòng trên lầu. Vì Ly-đa ở gần Giốp-bê nên khi các môn đệ Chúa nghe tin Phê-rơ đang ở Ly-đa liền sai hai người qua đó nài xin: “Mời ông đến ngay!” Phê-rơ đứng dậy lên đường với hai người. Đến nơi, ông được đưa lên lầu. Tất cả các quả phụ đứng quanh ông vừa khóc vừa chỉ các bộ áo và y phục mà bà Hoàng Dương đã may cho khi bà còn sống với họ. Phê-rơ mời tất cả ra khỏi phòng rồi quỳ gối cầu nguyện. Quay lại xác chết ông bảo: “Bà Ta-bi-tha, hãy dậy!” Bà mở mắt, thấy Phê-rơ, liền ngồi dậy. Phê-rơ đưa tay nâng bà đứng dậy rồi gọi các thánh đồ và các quả phụ đến cho họ thấy bà đang sống. Tin này loan báo khắp cả khu vực Giốp-bê nên nhiều người tin nhận Chúa. Phê-rơ ở lại Giốp-bê lâu ngày trọ tại nhà Si-môn, một người thợ thuộc da. Cọt-nây Tại Sê-sa-rê có một người tên Cọt-nây, là đội trưởng, thuộc trung đoàn Y-ta-lia. Ông và cả gia đình là người sùng kính Đức Chúa Trời, thường cứu giúp những người nghèo khổ và thường xuyên cầu nguyện Đức Chúa Trời. Một hôm vào khoảng ba giờ chiều, ông thấy rõ ràng khải tượng một thiên sứ của Đức Chúa Trời bước vào nhà gọi ông: “Cọt-nây!” Ông nhìn chăm chăm thiên sứ, run sợ đáp: “Thưa Chúa, có việc chi?” Thiên sứ bảo: “Các lời cầu nguyện và việc cứu tế của ông đã thấu đến và được ghi nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Bây giờ, ông hãy sai người đến Giốp-bê, mời Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ta đang ở trọ với Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.” Khi thiên sứ nói chuyện cùng ông đã đi rồi, ông gọi hai gia nhân và một quân nhân sùng kính Đức Chúa Trời đang phục vụ mình và thuật cho họ nghe mọi chi tiết rồi sai họ đi Giốp-bê. Hôm sau, khi họ gần đến Giốp-bê, khoảng giữa trưa Phê-rơ lên mái nhà cầu nguyện. Ông đói và thèm ăn. Khi người ta đang dọn ăn thì ông xuất thần, thấy bầu trời mở ra và có vật gì như tấm khăn lớn buộc bốn góc hạ xuống đất, chứa đủ các loài vật bốn chân, loài bò sát dưới đất và loài chim trời. Rồi một tiếng nói bảo ông: “Phê-rơ, hãy đứng dậy làm thịt mà ăn!” Nhưng Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa! Không được đâu! Con chẳng bao giờ ăn vật gì ô uế hoặc không tinh sạch.” Tiếng ấy lại bảo: “Đừng coi những vật Đức Chúa Trời đã thanh tẩy là ô uế!” Việc đó lập lại ba lần, rồi lập tức tấm khăn được thu lên trời. Phê-rơ đang phân vân tìm hiểu ý nghĩa khải tượng này. Ngay lúc ấy, những người Cọt-nây sai đi đã tìm ra nhà của Si-môn, vừa đến đứng ngay trước cửa. Họ lớn tiếng hỏi: “Si-môn gọi là Phê-rơ có trọ tại đây không?” Phê-rơ còn đang suy nghiệm về khải tượng ấy, thì Thánh Linh bảo: “Kìa có ba người đang tìm con. Con hãy đứng dậy xuống dưới nhà và đi với họ, đừng do dự, vì Ta đã sai họ đến!” Phê-rơ xuống và bảo họ: “Tôi là người các ông đang tìm, vì lý do nào các ông đến đây?” Họ đáp: “Đội trưởng Cọt-nây sai chúng tôi đến đây. Ông ta là người công chính và sùng kính Đức Chúa Trời, được toàn dân Do Thái kính nể. Một thiên sứ thánh đã bảo ông ta mời ông về nhà để nghe những điều ông dạy.” Phê-rơ mời họ vào nhà nghỉ. Hôm sau, Phê-rơ cùng họ lên đường, có vài anh em tín hữu ở Giốp-bê tháp tùng. Ngày hôm sau, họ đến Sê-sa-rê. Cọt-nây đang chờ đợi và đã mời bà con, thân hữu tề tựu đông đủ. Phê-rơ vừa bước vào, Cọt-nây ra đón, quỳ dưới chân ông mà lạy. Nhưng Phê-rơ đỡ Cọt-nây dậy, bảo rằng: “Xin ông đứng lên cho! Tôi cũng là người thường thôi!” Vừa nói chuyện với Cọt-nây, vừa tiến vào trong nhà, Phê-rơ thấy một đám đông đang tụ họp. Ông nói: “Quý vị thừa biết theo phong tục người Do Thái, kết thân với người khác chủng tộc hoặc đến thăm họ là điều cấm kỵ. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ cho tôi biết tôi không được gọi ai là phàm tục hoặc ô uế cả. Do đó, khi được mời là tôi đến ngay, không phản đối gì. Vậy xin quý vị cho biết vì lý do nào quý vị mời tôi đến đây?” Cọt-nây đáp: “Bốn ngày trước đây, vào khoảng giờ này, tức ba giờ chiều, tôi đang ở nhà cầu nguyện. Bỗng một người mặc áo sáng rực đến đứng ngay trước mặt tôi mà bảo: ‘Ông Cọt-nây, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện ông và ghi nhớ việc ông cứu tế người nghèo khổ, Hãy sai người đến Giốp-bê tìm Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ấy đang trọ ở nhà Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.’ Vậy nên tôi lập tức sai người đi mời ông và ông có lòng tốt đến đây. Giờ đây, tất cả chúng tôi hiện diện trước mặt Đức Chúa Trời để nghe mọi điều Chúa đã truyền dạy ông.” Phê-rơ bắt đầu nói: “Bây giờ, tôi ý thức rằng Đức Chúa Trời thật chẳng thiên vị ai, nhưng trong tất cả các dân tộc, hễ ai kính sợ Ngài và làm điều công chính đều được Ngài hài lòng. Đây là sứ điệp Đức Chúa Trời gửi cho người Y-sơ-ra-ên, nói về Phúc Âm bình an qua Chúa Cứu Thế Giê-su, là Chủ Tể của mọi người. Quý vị đã rõ các diễn biến tại toàn xứ Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê sau phép báp-tem mà Giăng truyền giảng. Thế nào Đức Chúa Trời đã xức dầu Đức Giê-su ở Na-xa-rét bằng Thánh Linh và quyền năng, Ngài đi khắp nơi làm việc phúc đức và chữa lành tất cả những người bị quyền lực quỷ vương áp bức, vì Đức Chúa Trời ở với Ngài. Chúng tôi là nhân chứng đã thấy tận mắt tất cả những việc Ngài làm trong đất nước người Do Thái và tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã giết Ngài bằng cách treo Ngài trên cây gỗ. Nhưng ba ngày sau, Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại và cho người ta thấy Ngài. Không phải cho toàn thể dân chúng, nhưng chỉ những nhân chứng mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn, tức chúng tôi là những người đã từng ăn uống với Chúa sau khi Ngài chết rồi sống lại. Chúa ra lệnh cho chúng tôi truyền giảng cho dân chúng và xác chứng rằng Ngài là Đấng được Đức Chúa Trời lập làm Thẩm Phán xét xử mọi người, kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các tiên tri của Chúa đều làm chứng về Ngài rằng ai tin cậy Ngài đều được tha tội nhờ danh Ngài.” Phê-rơ còn đang nói, Thánh Linh đã giáng xuống trên tất cả những người nghe sứ điệp ấy. Các tín hữu tháp tùng Phê-rơ đều kinh ngạc vì ân tứ Thánh Linh cũng đổ xuống trên người ngoại quốc nữa, vì họ cũng nghe những người ấy nói các tiếng lạ và ca tụng Đức Chúa Trời. Lúc ấy, Phê-rơ tuyên bố: “Những người này đã tiếp nhận Thánh Linh cũng như chúng ta. Thế thì còn ai dám ngăn họ chịu phép báp-tem bằng nước nữa?” Vậy, ông bảo làm phép báp-tem cho họ nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su. Họ mời ông lưu lại vài ngày nữa. Phê-rơ Trở Về Với Hội Thánh Giê-ru-sa-lem Các sứ đồ và anh em tín hữu khắp xứ Giu-đê nghe tin người ngoại quốc cũng đã tiếp nhận Đạo Đức Chúa Trời. Khi Phê-rơ lên Giê-ru-sa-lem, các tín hữu đã chịu cắt bì chỉ trích ông rằng: “Ông vào thăm nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn với họ!” Phê-rơ tường thuật thứ tự mọi việc diễn biến cho họ nghe: “Hôm ấy, tôi ở thành phố Giốp-bê, đang cầu nguyện thì trong một cơn xuất thần, tôi được thấy khải tượng. Có vật gì giống như tấm khăn lớn, buộc bốn góc, từ trời hạ xuống tận nơi tôi. Nhìn vào, tôi nhận thấy đủ các loài vật bốn chân, loài dã thú, loài bò sát và loài chim trời. Tôi nghe một tiếng nói bảo tôi: ‘Phê-rơ, con hãy đứng dậy, làm thịt mà ăn!’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, không được đâu! Vì con chẳng bao giờ ăn món gì ô uế hoặc không tinh sạch!’ Tiếng từ trời lại bảo tôi lần thứ nhì: ‘Đừng coi những vật Đức Chúa Trời đã thanh tẩy là ô uế!’ Việc đó lập lại ba lần, rồi tất cả được thu lên trời. Ngay lúc ấy có ba người mà người ta phái từ Sê-sa-rê đến mời tôi, đến đứng trước cửa nhà. Đức Thánh Linh bảo tôi đi với họ, đừng nghi ngại gì. Có sáu anh em này cùng đi với tôi và chúng tôi vào nhà người ấy. Ông ta thuật cho chúng tôi rằng ông đã thấy một thiên sứ xuất hiện tại nhà mình mà bảo: ‘Hãy sai người đến Giốp-bê tìm Si-môn gọi là Phê-rơ. Người ấy sẽ bảo cho ông biết lời Chúa; nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu.’ Tôi vừa bắt đầu nói thì Đức Thánh Linh đã giáng xuống trên họ cũng như trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi nhớ lại lời Chúa dạy: ‘Giăng đã làm phép báp-tem bằng nước nhưng các con sẽ được báp-tem bằng Đức Thánh Linh?’ Nếu Đức Chúa Trời đã ban cho họ ân tứ giống hệt như ân tứ Ngài đã ban cho chúng ta ngày trước, khi chúng ta tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, thì tôi là ai mà dám ngăn trở Đức Chúa Trời?” Nghe vậy, họ thôi chỉ trích Phê-rơ và ca ngợi Đức Chúa Trời rằng: “Thế là Đức Chúa Trời cũng đã ban cho các dân tộc ngoại quốc lòng ăn năn để được sống!” Hội Thánh Tại An-ti-ốt Các tín hữu phải di tản trong cuộc bắt bớ do vụ Ê-tiên đi qua xứ Phê-ni-xi, đảo Síp và An-ti-ốt, nhưng chỉ truyền giáo cho người Do Thái mà thôi. Tuy nhiên, vài người trong số ấy, gốc ở Síp và Sy-ren đến An-ti-ốt và bắt đầu truyền giảng Phúc Âm về Chúa Giê-su cho người ngoại quốc. Quyền năng Chúa ở cùng họ nên một số đông người tin nhận và quay về với Chúa. Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem nghe tin, liền phái Ba-na-ba đến An-ti-ốt. Đến nơi được chứng kiến ân sủng của Đức Chúa Trời, ông vui mừng, khích lệ tất cả anh em quyết tâm kiên trì theo Chúa, vì Ba-na-ba là người tốt, đầy dẫy Thánh Linh và đức tin. Số người tin Chúa lại gia tăng rất nhiều. Ba-na-ba đi Tạc-sơ tìm Sau-lơ. Tìm được rồi, ông đưa Sau-lơ về An-ti-ốt. Suốt một năm, Ba-na-ba và Sau-lơ nhóm họp với Hội Thánh và giảng dạy cho nhiều người. Tại An-ti-ốt, lần đầu tiên, các tín hữu được gọi là Cơ-đốc nhân. Trong thời gian ấy, có vài nhà tiên tri từ Giê-ru-sa-lem đến An-ti-ốt. Một người tên A-ga-bút đứng dậy và cậy quyền năng Thánh Linh báo trước rằng sẽ có nạn đói lớn xảy ra khắp nơi có cư dân (Nạn đói này xảy ra dưới triều Cơ-lốt). Các môn đệ Chúa quyết định mỗi người sẽ tùy khả năng gửi quà cứu trợ các anh em tín hữu tại Giu-đê. Họ thực thi công cuộc cứu tế, nhờ Ba-na-ba và Sau-lơ chuyển giao tặng phẩm cho các trưởng lão. Hội Thánh Lại Bị Bức Hại Vào lúc ấy, vua Hê-rốt bắt bớ một số người trong Hội Thánh. Vua sai xử trảm Gia-cơ, anh của Giăng. Thấy việc đó được dân Do Thái hoan nghênh, vua lại cho tìm bắt Phê-rơ vào mùa lễ Bánh Không Men. Bắt được Phê-rơ, vua đem tống giam vào ngục, giao cho bốn tiểu đội canh gác,12:4 Ctd: bốn đội, mỗi đội bốn binh sĩ định sau lễ Vượt qua sẽ đưa ra xét xử trước dân chúng. Vì thế, Phê-rơ bị giam trong ngục, nhưng Hội Thánh cứ khẩn thiết cầu nguyện Đức Chúa Trời cho ông. Phê-rơ Được Giải Cứu Trước ngày vua Hê-rốt đưa Phê-rơ ra tòa, giữa đêm, Phê-rơ đang mang hai xiềng, ngủ giữa hai binh sĩ, còn trước cổng có các lính canh gác. Bỗng, một thiên sứ của Chúa hiện ra, ánh sáng chiếu vào ngục tối. Thiên sứ đập vào sườn Phê-rơ, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy nhanh lên!” Lập tức hai xiềng rớt ra khỏi tay Phê-rơ. Thiên sứ lại bảo: “Cài nịt, mang dép vào!” Phê-rơ làm theo. Thiên sứ tiếp: “Hãy choàng áo ngoài vào rồi theo tôi!” Phê-rơ theo thiên sứ ra khỏi ngục, nhưng ông không biết việc do thiên sứ làm là chuyện thật, lại tưởng mình đang thấy khải tượng. Qua khỏi trạm canh thứ nhất và thứ nhì, thiên sứ và Phê-rơ vừa đến trước cổng sắt dẫn vào thành, thì cổng tự mở ra cho họ đi qua. Đi vào một đường phố, thiên sứ lập tức rời Phê-rơ. Phê-rơ hồi tỉnh lại, tự bảo: “Bây giờ tôi mới biết chắc chắn. Chúa đã sai thiên sứ Ngài đến giải cứu tôi thoát khỏi Hê-rốt và mọi điều dân Do Thái mong muốn.” Ý thức rõ ràng như thế, ông đến nhà bà Ma-ri, mẹ của Giăng cũng gọi là Mác, nơi đây nhiều tín hữu đang nhóm họp cầu nguyện. Nghe tiếng ông gõ cửa, một chị giúp việc tên Rô-đa tiến lại gần cửa nghe ngóng. Nhận ra tiếng nói của Phê-rơ, chị mừng quá quên cả mở cửa, chạy vào báo tin Phê-rơ đang đứng trước cửa. Các tín hữu quở: “Mày điên à?” Nhưng chị quả quyết là đúng. Họ lại bảo: “Đấy là thiên sứ của Phê-rơ.” Nhưng Phê-rơ cứ tiếp tục gõ cửa. Mở cửa ra thấy ông, họ kinh ngạc vô cùng. Ông lấy tay làm hiệu bảo họ im lặng, và thuật lại cho họ nghe Chúa cứu mình ra khỏi ngục cách nào, rồi bảo: “Xin báo tin cho Gia-cơ và các anh em biết việc này!” Nói xong ông lánh qua một nơi khác. Đến sáng, có vụ rối loạn không nhỏ trong hàng ngũ binh sĩ vì điều đã xảy ra cho Phê-rơ. Vua Hê-rốt Chết Vua Hê-rốt ra lệnh truy nã gắt gao nhưng tìm không được Phê-rơ. Vua cho thẩm vấn lại các lính gác và ra lệnh xử tử hết. Sau đó, vua rời Giu-đê xuống ở tại Sê-sa-rê một thời gian. Trước kia, vua căm giận dân Ty-rơ và dân Si-đôn, nhưng họ đồng lòng đến chầu vua. Sau khi thuyết phục được Ba-la-tư, một cận thần của vua, họ xin cầu hòa vì dân nước họ phải nhờ nước vua cung cấp lương thực. Đến ngày đã ấn định, Hê-rốt mặc triều phục, ngồi trên tòa ban huấn thị cho dân. Dân chúng tung hô vua: “Đây là tiếng nói thần linh chứ không phải tiếng người!” Lập tức một thiên sứ của Chúa đánh Hê-rốt vì vua không quy vinh quang về Đức Chúa Trời và vua bị trùng cắn mà chết. Nhưng Đạo Chúa tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Sau khi chu toàn nhiệm vụ, Ba-na-ba và Sau-lơ rời Giê-ru-sa-lem quay về An-ti-ốt đem theo Giăng, cũng gọi là Mác. Đoàn Truyền Giáo Ra Đi Từ An-ti-ốt Tại Hội Thánh An-ti-ốt có các tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-môn biệt danh là Ni-giê, Lu-xi-út, người Ly-bi, Ma-na-ên, em nuôi của vua Hê-rốt và Sau-lơ. Họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh bảo: “Các con hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để họ làm công tác Ta đã kêu gọi họ.” Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và phái đi. Được Đức Thánh Linh sai đi, hai ông xuống Sê-lơ-xi, đáp tàu qua đảo Síp. Đến Sa-la-môn, họ công bố Đạo Đức Chúa Trời tại các hội đường Do Thái, có Giăng phụ tá. Đi qua suốt cả hải đảo đến Ba Phô, họ gặp một thầy phù thủy là tiên tri giả người Do Thái tên Ba-Giê-su, đang ở với tổng trấn Sê-giút Phao-lút, một người khôn ngoan. Tổng trấn cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ để tìm hiểu Đạo Chúa. Nhưng tên phù thủy (cũng gọi là Ê-ly-ma) chống đối họ và cố gắng đánh lạc hướng để tổng trấn đừng tin Chúa. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô được đầy Thánh Linh, nhìn thẳng người phù thủy mà bảo: “Anh là người đầy gian dối, lừa gạt, là con của quỷ vương, kẻ thù địch của mọi sự công chính! Anh không chấm dứt việc xuyên tạc đường lối ngay thẳng của Chúa sao? Này, bây giờ tay Chúa đánh anh, nên anh sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời một thời gian.” Lập tức mù lòa và bóng tối bao trùm Ê-ly-ma, anh ta phải đưa tay sờ soạng, nhờ người nắm tay dắt mình đi. Thấy thế, tổng trấn liền tin Chúa và vô cùng kinh ngạc về giáo huấn của Chúa. Từ Ba Phô, Phao-lô và các bạn đồng hành đáp thuyền đi Bẹt-ga, thuộc Bam-phi-li. Đến đây, Giăng bỏ họ quay về Giê-ru-sa-lem. Từ Bẹt-ga, họ đi đến tận An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi. Nhằm ngày Sa-bát, họ vào ngồi trong hội đường của người Do Thái. Sau khi đọc Kinh Luật và Kinh Tiên Tri, các nhân viên quản trị hội đường cho mời họ và nói: “Thưa các anh em, nếu ai có lời khích lệ hội chúng thì xin cứ phát biểu!” Phao-lô đứng dậy, đưa tay ra hiệu và nói: “Thưa người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày. Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên đã chọn tổ phụ chúng ta và cho họ thịnh đạt trong thời gian ngụ tại đất Ai-cập. Ngài dùng tay quyền năng cao cả dìu dắt họ ra khỏi nước này. Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. Ngài tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an và cho họ thừa hưởng đất nước ấy. Thời kỳ này độ bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Ngài ban cho họ các thẩm phán cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. Lúc ấy họ đòi xin một vị vua. Đức Chúa Trời cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. Rồi Ngài loại Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, là người được Ngài chứng nhận: ‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con Gie-sê,13:22 Thi 89:20 người mà Ta hài lòng,13:22 1Sa 13:14 Người sẽ thực hiện tất cả ý định của Ta.’ 13:22 Isa 44:28 Do dòng dõi của Đa-vít, Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su theo lời hứa của Ngài. Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Giăng đã tuyên bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phép báp-tem ăn năn tội. Khi gần hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Các ngươi nghĩ ta là ai? Ta không phải là Đấng đó, nhưng kìa, Ngài đến sau ta, ta không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’ Thưa các anh em là dòng dõi Áp-ra-ham và những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã được ban bố cho chúng ta. Vì dân cư Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo của họ không nhận biết Đức Giê-su nhưng khi lên án Ngài, họ lại làm ứng nghiệm lời các tiên tri của Chúa vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát. Dù không tìm thấy lý do nào để kết án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát xử tử Ngài. Khi họ đã làm trọn tất cả những lời đã chép về Ngài, họ hạ xác Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong một ngôi mộ. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, và những người đã theo Ngài từ miền Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem được thấy Ngài trong nhiều ngày. Hiện nay, họ đều làm chứng về Ngài trước dân chúng. Chúng tôi báo tin mừng cho quý vị: Điều Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ chúng ta, Ngài đã thực hiện cho chúng ta là dòng dõi họ, bằng cách khiến Đức Giê-su sống lại như Thánh Thi thứ nhì đã chép: ‘Ngươi là con Ta, Ngày nay Ta đã sinh ngươi.’13:33 Thi 2:7 Sự kiện Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, không bị rữa nát bao giờ, đã được phán: ‘Ta sẽ cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’13:34 Isa 55:3 Do đó, trong một chương khác, Kinh Thánh lại nói: ‘Chúa sẽ không cho Đấng Thánh của Ngài bị rữa nát.’13:35 Thi 16:10 Nhưng sau khi phục vụ Đức Chúa Trời theo ý Ngài trong thời đại mình, vua Đa-vít đã chết, được chôn cất bên cạnh tổ tiên, và phải bị rữa nát. Còn Đấng được Đức Chúa Trời làm cho sống lại thì không bao giờ bị rữa nát. Vậy, thưa anh em, xin nhận thức rằng chính nhờ Đức Giê-su mà ơn tha tội được công bố cho các anh em. Tất cả những ai tin Ngài đều được tuyên xưng công chính về mọi điều mà Kinh Luật Môi-se không thể nào tuyên xưng công chính được. Vậy hãy coi chừng để khỏi bị mắc phải điều các tiên tri Chúa đã cảnh cáo: ‘Hỡi những kẻ khinh miệt, xem đây! Hãy kinh ngạc và chết đi! Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc, Dù nghe ai nói Các ngươi cũng không tin!’ ”13:41 Hab 1:5 Khi ra về, dân chúng yêu cầu hai ông ngày Sa-bát sau, cũng giảng luận thêm cho họ nghe các điều ấy nữa. Cuộc họp đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông chuyện trò với họ và khích lệ họ cứ tiếp tục sống theo ân sủng của Đức Chúa Trời. Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân trong thành đều họp lại để nghe Đạo Chúa. Thấy đoàn dân đông đảo, những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối những điều Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông. Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn tuyên bố: “Cần phải truyền Đạo Đức Chúa Trời cho các người trước nhất, vì các người chối bỏ Đạo Chúa và tự xét mình không xứng đáng được sự sống vĩnh phúc nên bây giờ chúng tôi quay sang các dân tộc ngoại quốc. Vì Chúa đã truyền bảo tôi: ‘Ta đã lập con lên làm ánh sáng cho các dân tộc, Để con đem sự cứu rỗi đến tận cùng quả đất.’ ”13:47 Isa 49:6 Nghe lời này, người ngoại quốc hân hoan và tôn vinh Đạo Chúa; những người đã được định để hưởng sự sống vĩnh phúc đều tin nhận Chúa. Đạo Chúa được truyền bá khắp cả miền ấy. Nhưng người Do Thái sách động một số phụ nữ quý phái theo Do Thái giáo và các cấp lãnh đạo của thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ. Để phản ứng lại, hai ông phủi bụi dính chân mình và qua thành Y-cô-ni. Còn các môn đệ Chúa được đầy dẫy Thánh Linh và vui mừng. Truyền Giáo Tại Y-cô-ni Tại Y-cô-ni cũng thế, Phao-lô và Ba-na-ba vào hội đường Do Thái giảng luận đến nỗi một số rất đông người Do Thái và người Hy Lạp tin nhận Chúa. Nhưng những người Do Thái không tin theo lại sách động người ngoại quốc, đầu độc tâm trí họ để chống lại các anh em tín hữu. Dù vậy, hai sứ đồ lưu lại đây một thời gian dài, tiếp tục giảng về Chúa cách dũng cảm. Chúa cho các sứ đồ thực hiện các dấu lạ và phép mầu để xác chứng cho Đạo ân sủng của Ngài. Nhưng dân trong thành chia làm hai phe, một phe theo người Do Thái, phe kia theo các sứ đồ. Cả người ngoại quốc lẫn người Do Thái âm mưu với cấp lãnh đạo của họ để ngược đãi và ném đá các sứ đồ. Được tin này hai ông liền lánh qua các thành Lít-tra và Đẹt-bơ thuộc Ly-cao-ni và miền phụ cận. Ở đó họ tiếp tục truyền giảng Phúc Âm. Phao-lô Và Ba-na-ba Tại Lít-tra Tại Lít-tra, có một người liệt chân, từ lúc sơ sinh không bao giờ đi được. Anh ngồi nghe Phao-lô giảng dạy. Phao-lô nhìn chăm mặt anh, thấy anh có đức tin có thể chữa lành được, liền lớn tiếng bảo: “Anh hãy đứng thẳng lên trên chân mình!” Anh nhảy lên và bước đi. Đám đông dân chúng thấy việc Phao-lô làm liền reo lên bằng tiếng Ly-cao-ni: “Các thần linh đã hiện thân làm người, xuống thăm chúng ta!” Họ gọi Ba-na-ba là Mộc Tinh14:12 Nt: Dia (Zues) và Phao-lô là Thủy Tinh14:12 Nt: Herme vì ông hướng dẫn cuộc giảng luận. Vị tế lễ của thần Mộc Tinh, có đền thờ ở ngay bên ngoài thành, đem nhiều bò đực và tràng hoa đến cổng thành, định cùng với dân chúng dâng tế lễ cho các sứ đồ. Nghe tin, hai sứ đồ Ba-na-ba và Phao-lô liền xé áo mình, xông vào giữa đám đông, lớn tiếng kêu gọi: “Thưa quý vị, tại sao lại làm như vậy? Chúng tôi cũng là người như quý vị mà thôi, chỉ truyền giảng Phúc Âm để quý vị lìa bỏ những việc hư không này mà quay về với Đức Chúa Trời Hằng Sống, là Đấng đã dựng nên trời, đất, biển và vạn vật trong đó. Trong các đời trước, Ngài đã để cho tất cả các dân tộc đi theo đường lối của mình. Tuy nhiên, không phải Chúa không để lại các bằng chứng cho Ngài đâu: Ngài tỏ lòng nhân ái cho mưa đổ xuống từ trời, cho mùa màng hoa quả, thực phẩm dồi dào và cho lòng chúng ta đầy dẫy vui mừng.” Nói đến thế mà các sứ đồ cũng phải chật vật lắm mới can ngăn được dân chúng dâng tế lễ cho mình. Bấy giờ có mấy người Do Thái từ An-ti-ốt và Y-cô-ni đến, sách động dân chúng ném đá Phao-lô, tưởng ông đã chết, nên kéo xác bỏ ra bên ngoài thành. Nhưng trong khi các môn đệ Chúa xúm quanh, Phao-lô vùng dậy, đi vào thành. Hôm sau, ông cùng đi với Ba-na-ba qua Đẹt-bơ. Trở Về An-ti-ốt Họ truyền bá Phúc Âm trong thành ấy, khiến nhiều người tin Chúa. Rồi quay lại Lít-tra, Y-cô-ni và An-ti-ốt, các sứ đồ củng cố tinh thần các môn đệ, khích lệ họ bền lòng tin Chúa mà rằng: Chúng ta phải trải qua nhiều hoạn nạn mới vào được Nước Đức Chúa Trời. Sau khi cử các trưởng lão trong mỗi Hội Thánh, cầu nguyện và kiêng ăn, hai sứ đồ giao thác các tín hữu cho Chúa, là Đấng họ đã tin. Vượt qua Bi-si-đi, đến xứ Bam-phi-li, họ giảng Đạo Chúa ở Bẹt-ga, rồi xuống hải cảng A-ta-li đáp tàu đi An-ti-ốt. Đây chính là nơi họ từng được ủy nhiệm cho ân sủng của Đức Chúa Trời để thực hiện các công tác vừa mới làm xong. Về đến nơi, họ triệu tập Hội Thánh, báo cáo mọi việc Đức Chúa Trời đã cùng làm với mình và xác nhận rằng Ngài đã mở cửa đức tin cho các dân tộc ngoại quốc. Họ cứ ở lại đây với các môn đệ Chúa một thời gian khá lâu. Hội Nghị Công Đồng Đầu Tiên Có mấy người từ Giu-đê xuống An-ti-ốt dạy bảo anh em rằng: “Nếu không chịu cắt bì theo đúng luật Môi-se, thì các anh không được cứu đâu!” Việc này gây nên sự bất đồng ý kiến và tranh luận giữa Phao-lô và Ba-na-ba với các người đó. Vậy Phao-lô và Ba-na-ba cùng mấy tín hữu khác được cử lên gặp các sứ đồ và trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem nhằm giải quyết vấn đề này. Hội Thánh đưa hai ông lên đường. Khi đi qua xứ Phê-ni-xi và Sa-ma-ri, họ tường thuật việc các dân tộc ngoại quốc trở về với Đức Chúa Trời, làm cho tất cả các anh em tín hữu đều hết sức vui mừng. Đến Giê-ru-sa-lem, được Hội Thánh, các sứ đồ và trưởng lão hoan nghênh, họ báo cáo mọi việc Đức Chúa Trời đã cùng làm với họ. Nhưng có mấy người thuộc nhóm Pha-ri-si đã tin Đạo, đứng lên đòi hỏi: “Phải làm lễ cắt bì cho các tín hữu ấy và buộc họ phải tuân giữ Kinh Luật Môi-se!” Các sứ đồ và trưởng lão nhóm họp để xét vấn đề này. Sau khi thảo luận kỹ lưỡng, Phê-rơ đứng dậy, tuyên bố: “Thưa các anh em! Anh em biết rõ từ trước, Đức Chúa Trời đã chọn tôi giữa các anh em, để dùng miệng tôi nói cho các dân tộc ngoại quốc nghe Phúc Âm, để họ tin nhận Chúa. Đức Chúa Trời là Đấng thấu hiểu lòng dạ loài người đã xác nhận Ngài tiếp nhận họ bằng cách ban Đức Thánh Linh cho họ, cũng như cho chúng ta ngày trước; Ngài không phân biệt chúng ta với họ, nên đã tẩy sạch lòng họ vì họ tin nhận Ngài. Thế thì tại sao anh em thử Đức Chúa Trời mà đặt trên cổ các môn đệ một cái ách mà tổ phụ chúng ta lẫn chúng ta cũng chẳng từng mang nổi? Nhưng chúng ta tin rằng bởi ân sủng của Chúa Giê-su, chúng ta được cứu cùng một cách như họ vậy.” Cả hội nghị đều im lặng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại những dấu lạ và phép mầu mà Đức Chúa Trời đã dùng họ thực hiện giữa các dân tộc ngoại quốc. Khi họ dứt lời, Gia-cơ phát biểu: “Thưa các anh em, xin nghe tôi nói: Si-môn đã công bố việc Đức Chúa Trời thăm viếng các dân tộc ngoại quốc buổi đầu như thế nào để tuyển chọn một dân cho Danh Ngài. Điều này phù hợp với lời các tiên tri của Chúa: ‘Sau các việc này, Ta sẽ trở lại và tái thiết nhà trại của Đa-vít đã hư sập; Ta sẽ xây dựng lại Và trùng tu những nơi đổ nát Ngõ hầu những người còn lại trong nhân loại có thể tìm kiếm Chúa, Cùng tất cả các dân tộc ngoại quốc mang Danh Ta. Chúa là Đấng thực hiện việc này phán vậy.15:17 Am 9:11-12 Suốt các thời đại, ai cũng biết điều đó.’15:18 Isa 45:21 Vì thế, tôi xét rằng không nên quấy rối những người từ trong các dân tộc ngoại quốc đang quay về với Đức Chúa Trời. Nhưng cần viết thư dặn họ giữ mình khỏi hoen ố vì các thần tượng hoặc vì tội gian dâm, cũng đừng ăn thịt thú vật chết ngạt và huyết. Vì từ những đời trước, trong mỗi thành phố, Môi-se đã được truyền giảng, và trong các hội đường vào mỗi ngày Sa-bát, Kinh Luật Môi-se cũng được tuyên đọc.” Thư Của Công Đồng Vậy, các sứ đồ và trưởng lão cùng toàn thể Hội Thánh quyết định chọn hai người giữa vòng họ để cử đi An-ti-ốt với Phao-lô và Ba-na-ba: Giu-đa biệt danh là Ba-sa-ba và Si-la, thuộc hàng lãnh đạo các anh em tín hữu. Họ viết bức thư đưa cho hai ông chuyển giao, như sau: Các anh em sứ đồ và trưởng lão, Kính gửi đến các anh em người ngoại quốc ở khắp An-ti-ốt, tại Sy-ri và Si-li-si lời chào thân ái. Vì chúng tôi nghe có mấy người giữa vòng chúng tôi đã nói những lời quấy rối và gây hoang mang cho anh em mặc dù chúng tôi không bao giờ ủy nhiệm họ, nên chúng tôi đồng lòng hiệp ý chọn vài đại biểu cùng với các thân hữu của chúng tôi là Ba-na-ba và Phao-lô và cử họ đến thăm anh em. Họ là những người từng liều thân vì Danh Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì thế, chúng tôi sai Giu-đa và Si-la đích thân xác nhận bằng lời nói những điều chúng tôi viết trong thư. Vì Đức Thánh Linh và chúng tôi quyết định không chất thêm gánh nặng nào khác trên anh em, ngoại trừ các điều cần thiết này: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết cùng các thú vật chết ngạt và đừng gian dâm. Anh em giữ các điều ấy là tốt. Kính chào anh em! Các đại biểu được tiễn đưa, lên đường xuống An-ti-ốt, triệu tập Hội Thánh và trao bức thư. Các tín hữu đọc thư xong đều vui mừng vì lời khích lệ ấy. Giu-đa và Si-la cũng là các tiên tri của Chúa lại dùng nhiều lời giảng dạy, đem lại niềm khích lệ và giúp các anh em thêm vững mạnh. Sau khi lưu lại đây một thời gian, các đại biểu được anh em tiễn chân cách bình an lên đường trở về với các vị lãnh đạo đã sai phái họ. Nhưng Si-la quyết định ở lại đây. Phao-lô và Ba-na-ba cũng lưu lại An-ti-ốt, hiệp với nhiều người khác dạy dỗ và truyền giảng lời Chúa. Phao-lô Và Ba-na-ba Chia Rẽ Nhau Sau đó một thời gian, Phao-lô bảo Ba-na-ba: “Chúng ta hãy trở lại thăm viếng các anh em tín hữu trong mỗi thành chúng ta đã truyền rao lời Chúa, xem họ ra thế nào!” Ba-na-ba muốn đem theo Giăng, biệt danh là Mác. Nhưng Phao-lô cho rằng không nên đem Mác theo vì Mác đã rời bỏ họ tại Bam-phi-li và không cùng họ tiếp tục công việc. Hai ông bất đồng ý kiến đến nỗi chia rẽ nhau. Ba-na-ba đem Mác đáp tàu qua đảo Síp. Còn Phao-lô chọn Si-la rồi lên đường, sau khi được anh em ủy thác mình cho ân sủng Chúa. Ông đi qua khắp miền Sy-ri và Si-li-si, làm cho các Hội Thánh vững mạnh. Ti-mô-thê Phao-lô đến Đẹt-bơ và Lít-tra. Tại đây, có một môn đệ tên Ti-mô-thê, con trai một nữ tín hữu Do Thái và một người Hy Lạp, được các anh em ở Lít-tra và Y-cô-ni làm chứng tốt. Phao-lô muốn đem Ti-mô-thê theo, nên ông làm lễ cắt bì cho thanh niên này vì người Do Thái trong vùng đó ai cũng biết cha Ti-mô-thê là người Hy Lạp. Đi từ thành này qua thành khác, họ truyền đạt cho anh em tín hữu quyết nghị của các sứ đồ và trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem để mọi người tuân giữ. Nhờ đó, các Hội Thánh được củng cố đức tin và gia tăng nhân số hằng ngày. Phao-lô Thấy Khải Tượng Về Người Ma-xê-đoan Phái đoàn đi suốt vùng Phi-ri-gi và Ga-la-ti, vì Thánh Linh ngăn họ truyền giảng Đạo Chúa tại Tiểu Á. Đến ngang My-si, họ cố gắng vào xứ Bi-thi-ni nhưng Thánh Linh của Đức Giê-su cũng không cho phép. Vậy họ vượt qua My-si, xuống thành Trô-ách. Ban đêm, Phao-lô thấy khải tượng một người Ma-xê-đoan đứng trước mặt nài nỉ: “Xin ông vào xứ Ma-xê-đoan cứu giúp chúng tôi!” Sau khi Phao-lô thấy khải tượng này, chúng tôi lập tức tìm cách đi vào xứ Ma-xê-đoan vì kết luận rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng tôi truyền bá Phúc Âm tại đó. Ly-đi Tin Chúa Đáp tàu tại Trô-ách, chúng tôi chạy thẳng qua Sa-mô-tra-xơ, hôm sau đến Nê-a-bô-li, từ đó qua Phi-líp ở địa đầu tỉnh Ma-xê-đoan, là một thành thuộc địa La Mã, chúng tôi ở lại thành này vài ngày. Ngày Sa-bát, chúng tôi ra ngoài cổng thành bên bờ sông vì nghĩ rằng đó là nơi nhóm cầu nguyện. Vừa ngồi xuống, chúng tôi nói chuyện với các phụ nữ đến họp. Một bà tên Ly-đi, buôn hàng lụa tía, gốc ở thành Thi-a-ti-rơ, là người có lòng thờ kính Đức Chúa Trời. Bà nghe và được Chúa mở lòng nên lưu ý những lời Phao-lô giảng dạy. Sau khi cùng với gia đình chịu phép báp-tem, bà tha thiết mời chúng tôi: “Nếu quý ông nhìn nhận rằng tôi trung tín với Chúa, thì xin mời quý ông về nhà tôi trú ngụ!” Rồi bà ép mời vào. Vì Cứu Người Mà Bị Tù Một hôm, đang đi đến nơi cầu nguyện, gặp một cô gái nô lệ bị quỷ bói khoa ám. Cô dùng thuật bói toán thu lợi nhiều cho chủ. Cô cứ theo Phao-lô và chúng tôi, la lớn tiếng: “Những người này là đầy tớ của Đức Chúa Trời Chí Cao! Họ rao truyền cho quý vị con đường cứu rỗi!” Cứ thế nhiều ngày liên tiếp, Phao-lô rất bực mình nên quay lại bảo tà linh: “Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, ta ra lệnh cho ngươi phải xuất khỏi cô này!” Quỷ liền ra khỏi cô ấy ngay giờ phút đó. Các chủ của cô nhận thấy không còn hy vọng trục lợi nữa liền bắt Phao-lô và Si-la kéo đến quảng trường, nộp cho nhà chức trách. Họ điệu hai ông ra tòa, trước các thẩm phán mà tố cáo: “Các tên này là người Do Thái, đã gây loạn trong thành phố chúng ta, tuyên truyền những tục lệ mà công dân La Mã chúng ta không được phép chấp nhận hoặc thi hành.” Đoàn dân cũng hùa nhau nổi lên chống nghịch các sứ đồ. Các thẩm phán ra lệnh xé áo và đánh đòn hai ông. Sau khi đánh đòn, các thẩm phán cho tống giam các sứ đồ và truyền giám ngục canh giữ cẩn mật. Được lệnh, giám ngục giam hai ông vào ngục kín và cùm chân lại. Khoảng nửa đêm, Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời, các tù nhân đều lắng nghe. Bỗng, có cơn động đất lớn đến nỗi nền nhà ngục rung chuyển. Ngay lúc ấy, tất cả các cửa đều mở tung, xiềng xích tù nhân đều tháo rời. Giám ngục thức dậy thấy các cửa ngục mở toang cả, tưởng tù nhân đã trốn thoát, liền rút gươm toan tự sát. Nhưng Phao-lô gọi lớn: “Đừng hủy mình! Vì tất cả chúng tôi còn ở lại đây!” Giám ngục sai lấy đèn, vội vàng chạy đến, run rẩy quỳ trước mặt Phao-lô và Si-la, rồi đưa hai ông ra ngoài mà hỏi: “Thưa các ngài, tôi phải làm chi để được cứu rỗi?” Họ đáp: “Hãy tin Chúa Giê-su, thì ông và gia đình ông sẽ được cứu!” Họ giảng giải Đạo Chúa cho giám ngục và tất cả người trong gia đình ông. Giữa đêm khuya, ngay giờ đó, giám ngục đem hai người đi rửa các vết thương; rồi lập tức ông và cả gia đình đều chịu phép báp-tem. Giám ngục đưa hai ông về nhà riêng, dọn tiệc thết đãi. Ông và cả gia đình đều tràn ngập vui mừng vì đã tin Đức Chúa Trời. Sáng hôm sau, các thẩm phán sai cảnh sát đến bảo giám ngục: “Ông hãy phóng thích mấy người đó đi!” Giám ngục báo tin cho Phao-lô: “Các thẩm phán đã ra lệnh phóng thích hai ông! Vậy, hai ông hãy ra và lên đường bình an!” Nhưng Phao-lô bảo họ: “Chúng tôi là công dân La Mã, dù không có án gì họ đã công khai đánh đòn chúng tôi và tống giam chúng tôi vào ngục. Bây giờ họ lại bí mật trục xuất chúng tôi sao? Không được đâu! Họ phải đến đây đưa chúng tôi ra!” Các cảnh sát về báo cáo; các thẩm phán sợ hãi khi được biết hai người là công dân La Mã. Họ liền đến năn nỉ, đưa hai ông ra, và yêu cầu rời khỏi thành. Các sứ đồ ra khỏi ngục, đến nhà bà Ly-đi thăm viếng, khích lệ các anh em tín hữu, rồi lên đường. Tê-sa-lô-ni-ca Phao-lô và Si-la đi ngang qua hai thành Am-phi-bô-li và A-bô-lô-ni rồi đến Tê-sa-lô-ni-ca; trong thành này có một hội đường của người Do Thái. Phao-lô theo thói quen vào hội đường và liên tiếp trong ba ngày Sa-bát, dùng Kinh Thánh tranh luận với người Do Thái, giải thích và chứng minh rằng Chúa Cứu Thế phải chịu thống khổ và sống lại từ kẻ chết. Ông nói: “Đức Giê-su này mà tôi rao truyền cho các ông đây chính là Chúa Cứu Thế!” Một số người được thuyết phục, kết hợp với Phao-lô và Si-la, gồm rất nhiều người Hy Lạp từng kính thờ Đức Chúa Trời và một số đông phụ nữ thuộc giới thượng lưu. Nhưng người Do Thái ghen ghét, rủ bọn côn đồ hung ác ngoài chợ, và tập họp đám đông, gây rối loạn trong thành phố. Họ kéo đến nhà Gia-sôn tìm hai người để đem nộp cho đám đông. Tìm không được, họ kéo Gia-sôn và vài anh em tín hữu đến các nhà cầm quyền thành phố, lớn tiếng tố cáo: “Bọn gây rối thế giới đã đến đây, và Gia-sôn chứa chấp chúng! Cả bọn chúng đều phạm luật của Sê-sa! Chúng bảo có một vua khác tên là Giê-su!” Nghe lời tố cáo, dân chúng và các nhà cầm quyền thành phố đều náo động. Nhưng họ chỉ bắt Gia-sôn và các đồng bạn nộp tiền bảo lãnh rồi thả ra. Các Sứ Đồ Tại Bê-rê Trời vừa tối, anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô và Si-la qua Bê-rê. Vừa đến nơi, hai ông vào hội đường Do Thái. Những người này cởi mở hơn người Tê-sa-lô-ni-ca; họ nhiệt thành tiếp nhận Đạo Chúa, hằng ngày tra cứu Kinh Thánh để xét xem lời giảng có đúng không. Vì thế nhiều người Do Thái tin nhận Chúa, ngoài ra còn có một số đông phụ nữ Hy Lạp thuộc giới thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin. Nhưng khi người Do Thái ở Tê-sa-lô-ni-ca nghe tin Đạo Đức Chúa Trời cũng được Phao-lô công bố tại Bê-rê, họ liền kéo sang, sách động và gây rối trong quần chúng. Anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô ra tận bờ biển, còn Si-la và Ti-mô-thê cứ lưu lại Bê-rê. Các người hướng đạo đưa Phao-lô đến tận A-then, rồi quay về đem chỉ thị cho Si-la và Ti-mô-thê phải đến với Phao-lô càng sớm càng tốt. A-then Trong khi chờ đợi hai người tại A-then, Phao-lô tức giận vì thấy thành phố đầy dẫy thần tượng. Ông biện luận với các người Do Thái trong hội đường, với những người Hy Lạp có lòng kính thờ Đức Chúa Trời và những người đến tại quãng trường hằng ngày. Mấy triết gia thuộc hai trường phái Khoái Lạc và Khắc Kỷ tranh luận với Phao-lô. Vài người bảo: “Tên lắm lời này muốn nói gì đây?” Mấy người khác lại bảo: “Dường như nó tuyên truyền cho các quỷ thần ngoại quốc!” Họ nói thế vì nghe Phao-lô truyền giảng Phúc Âm về Đức Giê-su và sự sống lại. Họ giữ Phao-lô lại, đưa đến trước hội đồng A-rê-ô-ba và bảo rằng: “Chúng tôi muốn biết giáo huấn mới mà ông đang nói đó! Vì ông mang đến cho chúng tôi mấy điều lạ tai. Chúng tôi muốn biết ý nghĩa của những điều đó!” (Tất cả dân A-then và ngoại kiều tại A-then chỉ dành thì giờ bàn tán và nghe những tư tưởng mới lạ nhất.) Phao-lô đứng giữa hội đồng A-rê-ô-ba và nói: “Thưa quý vị là người A-then, tôi nhận thấy bất luận việc gì quý vị cũng rất sùng kính. Khi đi qua quan sát các nơi thờ tự của quý vị, tôi có thấy một bàn thờ khắc chữ ‘Thờ Thần Không Biết’. Thần quý vị thờ mà không biết đó chính là thần tôi đang truyền cho quý vị. Đức Chúa Trời đã sáng tạo vũ trụ và vạn vật, là Chúa Tể của trời và đất; Ngài không ngự trong các đền miếu do tay người làm ra, cũng không cần tay người phục dịch như thể Ngài cần điều gì; Ngài ban sự sống, hơi thở và mọi vật cho mọi người. Từ một người, Ngài dựng lên tất cả các dân tộc trong nhân loại cho họ ở khắp mặt địa cầu, định thời gian hiện hữu và biên giới cho họ cư trú, để tìm kiếm Đức Chúa Trời, may ra có thể dò dẫm mà tìm được Ngài, dù Ngài không ở xa mỗi người trong chúng ta. Vì ‘Trong Ngài, chúng ta sinh hoạt, cử động và hiện hữu’, như vài thi sĩ của quý vị đã nói: ‘Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài.’ Vậy, đã là dòng dõi của Đức Chúa Trời, chúng ta đừng tưởng bản tính thần linh Ngài giống như vàng, bạc, đá, hình tượng điêu khắc hay sản phẩm tư tưởng của con người. Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã bỏ qua sự ngu muội ấy, nhưng bây giờ Ngài ra lệnh cho tất cả loài người phải ăn năn, vì Ngài đã ấn định một ngày để phán xét nhân loại cách công minh, do một Người Ngài đã chỉ định. Đức Chúa Trời đã xác chứng cho mọi người bằng cách khiến Người sống lại từ cõi chết.” Nghe nói kẻ chết sống lại, một số người chế giễu, nhưng một số khác lại nói: “Chúng tôi muốn nghe ông nói chuyện này một lần nữa!” Đến đây, Phao-lô bước ra khỏi hội đồng. Nhưng có mấy người theo ông và tin nhận Chúa. Trong số ấy có Đê-ni, một nhân viên hội đồng A-rê-ô-ba, một bà tên Đa-ma-ri và những người khác nữa. Cô-rinh-tô Sau đó, Phao-lô rời A-then qua Cô-rinh-tô. Tại đây, ông gặp một người Do Thái tên A-qui-la, sinh quán ở Bông-tu, mới cùng vợ là Bê-rít-sin ở Y-ta-li đến, vì hoàng đế Cơ-lốt đã ra lệnh trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi thủ đô Rô-ma. Phao-lô đi thăm họ, và ở lại làm việc với họ, vì ông sinh sống nhờ nghề may lều cũng như cặp vợ chồng này. Mỗi ngày Sa-bát, ông biện luận trong hội đường, thuyết phục cả người Do thái lẫn người Hy Lạp. Khi Si-la và Ti-mô-thê từ Ma-xê-đoan đến, Phao-lô tập trung vào việc giảng Đạo, chứng minh cho người Do Thái rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Thấy họ chống đối và phạm thượng, ông giũ áo mà bảo họ: “Máu các ông đổ lại trên đầu các ông! Còn tôi đã hết nhiệm vụ! Từ nay tôi sẽ đi đến các dân tộc ngoại quốc!” Bỏ hội đường, ông vào ngôi nhà của Ti-ti-u Giúc-tu, một người kính thờ Đức Chúa Trời có nhà bên cạnh hội đường. Cơ-rít-bu, người quản lý hội đường và cả gia đình đều tin Chúa. Nhiều người Cô-rinh-tô nghe ông giảng cũng tin và chịu phép báp-tem. Ban đêm, Chúa bảo Phao-lô trong một khải tượng: “Con đừng sợ! nhưng cứ nói, đừng làm thinh, vì Ta ở với con. Không ai làm hại con được, vì Ta có rất nhiều người trong thành phố này!” Ông lưu lại đây một năm sáu tháng dạy Đạo Đức Chúa Trời cho họ. Vào thời Ga-li-ô làm tổng trấn A-chai, người Do Thái cấu kết nhau tấn công Phao-lô và đưa ông ra tòa. Họ tố cáo: “Tên này xúi giục người ta thờ Đức Chúa Trời trái luật!” Phao-lô vừa mở miệng đáp thì Ga-li-ô bảo những người Do Thái: “Này, các anh Do Thái, nếu là tội ác hay phạm pháp, thì ta mới nhận lời khiếu tố của các anh, nhưng nếu là vấn đề ngôn từ, danh hiệu, và luật lệ riêng của các anh, thì các anh cứ việc giải quyết với nhau, Ta không muốn xét xử các chuyện ấy đâu!” Rồi ông đuổi chúng ra khỏi tòa án. Mọi người bắt Sốt-then, viên quản lý hội đường mà đánh đòn trước tòa án, nhưng Ga-li-ô cũng chẳng buồn lưu ý. Trở Về An-ti-ốt Phao-lô ở lại Cô-rinh-tô lâu ngày, rồi từ giã anh em tín hữu, đáp tàu về Sy-ri, có Bê-rít-sin và A-qui-la đồng đi. Tại Sen-cơ-rê, ông xuống tóc vì có lời thề nguyện. Đến Ê-phê-sô, Phao-lô để vợ chồng A-qui-la tại đây, còn ông vào hội đường thảo luận với người Do Thái. Họ mời ông ở lại thêm một thời gian; nhưng ông từ khước. Khi từ giã họ, ông nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời muốn, tôi sẽ trở lại với quý vị một lần nữa,” rồi đáp tàu rời Ê-phê-sô. Đến Sê-sa-rê, ông lên bờ đến thăm Hội Thánh rồi về An-ti-ốt. Sau một thời gian, ông lại ra đi, tuần tự thăm khắp vùng Ga-la-ti và Phi-ri-gi làm cho tất cả các môn đệ Chúa đều vững mạnh. A-bô-lô Đến Ê-phê-sô Và Cô-rinh-tô Trong khi đó, một người Do Thái đến Ê-phê-sô. Người này tên A-bô-lô, quê ở A-lê-xan-đơ-ri, có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. Đã được thụ huấn Đạo Chúa, ông hăng hái giảng và dạy cách chính xác những sự kiện về Đức Giê-su. Tuy nhiên, ông chỉ biết về phép báp-tem của Giăng. A-bô-lô bắt đầu diễn giải cách bạo dạn trong hội đường. Nghe ông nói, Bê-rít-sin và A-qui-la mời về nhà giải thích Đạo Chúa cho ông cách chính xác hơn nữa. Khi A-bô-lô định qua xứ A-chai, anh em tín hữu khích lệ ông và viết thư yêu cầu các môn đệ Chúa nghênh tiếp. Đến nơi, ông cậy ân sủng Chúa giúp ích nhiều cho các tín hữu. Vì ông công khai cực lực biện bác người Do Thái, dùng Kinh Thánh chứng minh rằng Đức Giê-su chính là Chúa Cứu Thế. Phao-lô Hoạt Động Tại Ê-phê-sô Khi A-bô-lô ở Cô-rinh-tô, Phao-lô theo con đường xuyên nội địa đến Ê-phê-sô. Gặp một số môn đệ tại đây, ông hỏi họ: “Khi anh em tin đã nhận lãnh được Thánh Linh chưa?” Họ đáp: “Chúng tôi cũng chưa nghe nói có Thánh Linh nào cả!” Ông hỏi: “Vậy anh em chịu phép báp-tem nào?” Họ đáp: “Phép báp-tem của Giăng.” Phao-lô nói: “Giăng làm phép báp-tem ăn năn tội, nhưng ông đã bảo dân chúng phải tin Đấng đến sau mình, nghĩa là tin Đức Giê-su.” Nghe vậy, họ đều chịu báp-tem nhân danh Chúa Giê-su. Khi Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Linh giáng xuống trên các môn đệ đó, họ nói các tiếng lạ và lời tiên tri. Số môn đệ ấy tổng cộng độ mười hai người đàn ông. Phao-lô vào hội đường giảng cách dạn dĩ trong ba tháng, biện luận và thuyết phục người nghe về Nước Đức Chúa Trời. Nhưng có một số người ngoan cố, không chịu tin còn xuyên tạc Đạo Chúa trước công chúng, nên ông bỏ họ, tập họp riêng các môn đệ hằng ngày thảo luận trong trường học của Ty-ra-nu. Việc này tiếp tục hai năm, đến nỗi tất cả mọi người ở tỉnh Tiểu Á, cả người Do Thái lẫn người Hy Lạp, đều được nghe Đạo Chúa. Các Con Trai Của Sê-va Đức Chúa Trời dùng tay Phao-lô làm những việc quyền năng phi thường, đến nỗi người ta đem khăn tay hoặc khăn choàng ông đã dùng đặt lên người bệnh thì các chứng bệnh đều được chữa lành và các tà linh bị trục xuất. Có mấy người Do Thái đi từ nơi này đến nơi khác trừ quỷ, cũng thử dùng Danh Chúa Giê-su để trừ tà linh. Họ bảo quỷ: “Ta trục xuất nhà ngươi nhân danh Đức Giê-su mà Phao-lô truyền giảng!” Đó là bảy con trai của Sê-va, một thượng tế Do Thái, đã làm như thế. Nhưng quỷ đáp: “Ta biết Đức Giê-su và cũng rõ Phao-lô, nhưng các ngươi là ai?” Người bị quỷ ám xông vào khống chế và áp đảo cả bọn đến nỗi họ phải bỏ nhà ấy chạy trốn, mình mẩy trần truồng và đầy thương tích. Tất cả người Do Thái và Hy Lạp trong thành Ê-phê-sô biết việc ấy đều khiếp sợ và Danh Chúa Giê-su càng được tôn kính. Nhiều tín đồ đến, công khai xưng tội và kể ra các việc họ đã làm. Một số đông người từng thực hành ma thuật đã gom góp sách phù chú và đốt đi trước mặt công chúng. Các sách này trị giá tổng cộng đến năm mươi ngàn miếng bạc. Vậy nhờ năng lực Chúa, Đạo Ngài ngày càng tăng trưởng và vững mạnh. Vụ Rối Loạn Tại Ê-phê-sô Sau các việc đó, Phao-lô quyết định trong lòng sẽ đi qua Ma-xê-đoan và A-chai để về Giê-ru-sa-lem. Ông nói: “Sau khi về đó, tôi cũng phải đến thăm Rô-ma.” Ông sai hai người phụ tá là Ti-mô-thê và Ê-rát đi trước qua Ma-xê-đoan, trong khi ông còn ở lại Tiểu Á thêm một thời gian. Bấy giờ, một cuộc náo loạn lớn xảy ra tại Ê-phê-sô vì Đạo Chúa. Một người thợ bạc tên Đê-mê-triu chuyên làm các điện thờ nữ thần Ác-tê-mít bằng bạc, đem lại nguồn lợi lớn cho giới thợ bạc. Ông triệu tập toàn thể thợ bạc và những người đồng nghiệp, và bảo: “Thưa các đồng nghiệp, các bạn đã biết nhờ nghề này mà chúng ta được giàu có. Chính các bạn cũng đã nghe và thấy rằng tên Phao-lô này dám bảo: Các thần tượng do tay người làm ra không phải là thần. Nó thuyết phục được nhiều người, không những ở thành Ê-phê-sô mà gần khắp cả Tiểu Á nữa. Chẳng những chúng ta sợ nghề nghiệp mình bị bêu riếu, lại còn có nguy cơ Đền thờ của đại nữ thần Ác-tê-mít cũng sẽ bị khinh dể, và đại danh của nữ thần được mọi người trong cả Tiểu Á và toàn thế giới tôn thờ cũng sẽ bị tiêu tan!” Nghe những lời ấy, họ nổi giận, hét lên: “Vĩ đại thay nữ thần Ác-tê-mít của người Ê-phê-sô!” Cả thành phố đều rối loạn. Người ta cùng nhau ào ào chạy vào hý trường, kéo theo Gai-út và A-ri-tạc, hai người Ma-xê-đoan bạn đồng hành của Phao-lô. Phao-lô định vào giáp mặt đám đông nhưng các môn đệ Chúa ngăn cản. Vài nhà lãnh tụ Tiểu Á là bạn của Phao-lô cũng sai người đến khuyên ông đừng mạo hiểm vào hý trường. Đám đông thật là hỗn loạn: Người hô thế này, kẻ gào thế khác. Phần đông cũng chẳng hiểu vì lý do nào mình đến tụ họp. Một số người từ đám đông chỉ dẫn cho A-léc-xan-đơ nên nói gì vì người Do Thái đẩy ông ra đứng trước. A-léc-xan-đơ lấy tay ra hiệu, định tự bào chữa trước công chúng Nhưng vừa nhận ra ông là người Do Thái, đoàn dân đồng thanh hô lớn trong suốt hai tiếng đồng hồ: “Nữ thần Ác-tê-mít của người Ê-phê-sô vĩ đại thay!” Tổng thư ký thành phố trấn an đoàn dân và bảo: “Đồng bào Ê-phê-sô! Ai lại không biết thành phố Ê-phê-sô có nhiệm vụ canh giữ đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mít và tượng của nữ thần đã từ trời giáng xuống sao? Vậy, vì không ai chối cãi được điều đó, nên đồng bào nên bình tĩnh, đừng làm gì vội vã! Đồng bào đã giải mấy người này đến đây, nhưng họ không có trộm cắp của đền thờ cũng không phạm thượng đến nữ thần của đồng bào! Vậy, nếu Đê-mê-triu và các đồng nghiệp muốn kiện cáo ai thì đã có các tòa án và các thẩm phán, cứ để họ đưa nhau ra tòa! Nếu đồng bào còn đòi hỏi điều gì, thì xin giải quyết tại hội đồng hợp pháp. Vì thật ra, chúng ta có cơ nguy bị tố cáo về tội nổi loạn vì vụ tập họp đông đảo hôm nay mà không có lý do nào biện minh được.” Nói xong, viên tổng thư ký giải tán đám đông. Phao-lô Qua Ma-xê-đoan Và Hy Lạp Khi cuộc rối loạn đã êm, Phao-lô triệu tập các môn đệ Chúa, khích lệ họ rồi từ giã, lên đường đi Ma-xê-đoan. Ông đi qua các vùng này, dùng nhiều sứ điệp khích lệ anh em tín hữu. Đến Hy Lạp, ông ở lại ba tháng. Đang chuẩn bị đáp tàu đi về Sy-ri, ông khám phá được âm mưu của người Do Thái hại ông, nên ông quyết định đi đường bộ trở về qua ngả Ma-xê-đoan. Cùng đi có Sô-ba-tê, con Phi-ru, người Bê-rê; A-ri-tạc, Sê-cung-đu, người Tê-sa-lô-ni-ca, Gai-út, người Đẹt-bơ; Ti-mô-thê, Ti-chi-cơ và Trô-phim ở Tiểu Á. Họ đi trước và đợi chúng tôi tại Trô-ách. Sau lễ Bánh Không Men, chúng tôi xuống tàu tại Phi-líp, năm ngày sau, gặp họ tại Trô-ách, chúng tôi ở lại đây một tuần lễ. Đi Trô-ách Vào ngày thứ nhất trong tuần lễ, chúng tôi họp nhau ăn bữa tiệc tương giao.20:7 Nt: bẻ bánh Phao-lô giảng luận cho anh em tín hữu. Vì hôm sau phải lên đường, nên ông tiếp tục giảng cho đến nửa đêm. Trong phòng họp trên lầu có đốt nhiều đèn. Một thanh niên tên Ơ-tích ngồi trên thành cửa sổ ngủ gục trong khi Phao-lô giảng dài. Vì ngủ say quá, nên anh từ trên tầng thứ ba té xuống. Người ta đỡ dậy, thấy anh đã chết rồi. Nhưng Phao-lô đi xuống, nằm sấp người trên anh, ôm anh rồi bảo: “Đừng sợ! Linh hồn còn ở trong người!” Phao-lô lên lầu bẻ bánh ăn và tiếp tục giảng luận đến sáng mới lên đường. Người ta đưa thanh niên ấy về nhà, thấy còn sống nên được an ủi nhiều. Đến Mi-lê Chúng tôi đi trước, đáp tàu qua A-sốt, chờ đón Phao-lô; vì ông định đi đường bộ nên đã xếp đặt như thế. Gặp nhau tại A-sốt, chúng tôi đón ông xuống tàu qua My-ti-len. Hôm sau, rời bến My-ti-len, tàu chúng tôi đến ngang đảo Chi-ô, đi được một ngày, ghé vào cảng Sa-mốt. Tàu chạy thêm một ngày nữa thì đến Mi-lê. Phao-lô đã quyết định đi qua Ê-phê-sô chứ không ghé lại để khỏi mất thì giờ tại Tiểu Á. Ông cố đi gấp để nếu được, có thể về đến Giê-ru-sa-lem cho kịp lễ Ngũ Tuần. Các Người Chăn Bầy Ở Ê-phê-sô Từ Mi-lê, Phao-lô sai người qua Ê-phê-sô triệu tập các trưởng lão của Hội Thánh. Khi họ đến đông đủ, ông trình bày: “Anh em biết nếp sống tôi suốt thời gian qua, từ ngày tôi mới đặt chân đến Tiểu Á. Tôi hầu việc Chúa với cả lòng khiêm nhường, đổ nhiều nước mắt, chịu đựng những cuộc thử thách do âm mưu ám hại của người Do Thái. Tôi công bố cho anh em đủ điều lợi ích, không giữ lại chút nào, dạy dỗ anh em giữa công chúng cũng như từ nhà này qua nhà khác. Tôi khuyến cáo cả người Do Thái lẫn người Hy Lạp phải ăn năn trở về với Đức Chúa Trời và tin nhận Chúa Giê-su. Kìa nay được Đức Thánh Linh ràng buộc, tôi đi về Giê-ru-sa-lem, chẳng biết sẽ gặp những gì tại đó. Tôi chỉ biết một điều: trong mỗi thành phố, Thánh Linh đều bảo tôi rằng ngục tù và hoạn nạn đang chờ đón tôi. Tuy nhiên tôi chẳng kể mạng sống mình là quý, miễn sao chạy xong cuộc đua và hoàn tất chức vụ nhận lãnh từ nơi Chúa Giê-su, để xác chứng cho Phúc Âm về ân sủng Đức Chúa Trời. Kìa, nay tôi biết rằng tất cả quý anh em đã được nghe tôi truyền giảng về Nước Đức Chúa Trời không một ai còn thấy mặt tôi nữa. Vì thế, hôm nay tôi xin thưa rằng tôi trong sạch, không phải chịu trách nhiệm về máu của một ai. Vì tôi đã công bố cho anh em biết tất cả ý định của Đức Chúa Trời, không giữ lại điều gì. Anh em hãy giữ mình và toàn thể bầy chiên mà Thánh Linh đã đặt anh em làm giám mục, để chăn dắt Hội Thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình. Tôi biết rằng sau khi tôi ra đi, sẽ có muông sói dữ tợn xen vào giữa anh em, chẳng dung tha bầy chiên đâu. Và giữa anh em sẽ có những người nổi lên dùng lời xuyên tạc để lôi cuốn các môn đồ theo họ. Vậy anh em phải tỉnh thức, hãy nhớ rằng suốt ba năm, cả ngày lẫn đêm tôi không ngừng đổ nước mắt khuyên bảo mỗi người luôn. Bây giờ, tôi giao thác anh em cho Chúa và cho Đạo ân sủng của Ngài, là Đạo có khả năng gây dựng và đem lại cho anh em cơ nghiệp giữa tất cả các thánh đồ. Tôi chẳng tham bạc, vàng, hoặc y phục của ai cả. Chính anh em biết rõ hai bàn tay này đã cung ứng các nhu cầu của tôi và các bạn đồng lao tôi. Trong mọi việc tôi làm, tôi bày tỏ cho anh em thấy rằng phải làm việc như thế để giúp đỡ những người đau yếu, hãy nhớ lại lời Chúa Giê-su dạy: ‘Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh.’ ” Nói xong, Phao-lô quỳ gối cầu nguyện với tất cả các trưởng lão. Tất cả đều khóc lóc, ôm Phao-lô mà hôn. Điều làm họ buồn thảm nhất là câu ông nói họ sẽ chẳng bao giờ thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu. Phao-lô Về Giê-ru-sa-lem Chúng tôi từ giã họ ra khơi. Tàu chạy thẳng qua đảo Cốt, hôm sau chúng tôi đến đảo Rô-đơ rồi đến Ba-ta-ra. Gặp một chiếc tàu đi Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và rời bến. Thấy bờ biển Síp, chúng tôi chạy ngang phía nam đảo này, trực chỉ Sy-ri, rồi cập bến Ty-rơ cho tàu dỡ hàng. Tại đây, chúng tôi gặp một số môn đồ nên ở lại với họ bảy ngày. Các môn đồ được Thánh Linh báo trước đã khuyên Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau những ngày đó, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Tất cả môn đồ cùng vợ và các con đều tiễn chúng tôi ra ngoài thành phố, và quỳ gối trên bãi biển mà cầu nguyện. Từ giã nhau, chúng tôi xuống tàu, còn các môn đồ trở về nhà. Chặng hải trình từ Ty-rơ chấm dứt tại Bê-tô-lê-mai. Chúng tôi lên bờ chào các môn đồ và ở lại với họ một ngày. Hôm sau, đến Sê-sa-rê, chúng tôi vào trọ nhà ông truyền giáo Phi-líp là một trong bảy vị chấp sự.21:8 Nt: bảy vị. Xem thêm Công 6:1-6 Ông có bốn con gái đồng trinh thường nói tiên tri. Mấy ngày sau, A-ga-bút một nhà tiên tri từ xứ Giu-đê xuống, đến thăm chúng tôi, lấy nịt lưng của Phao-lô tự trói tay chân mình và nói: “Đây là điều Thánh Linh phán dạy: Người chủ chiếc dây nịt này sẽ bị người Do Thái trói như vầy tại Giê-ru-sa-lem và nộp vào tay người ngoại quốc.” Nghe xong, chúng tôi và các môn đồ địa phương đều nài nỉ Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng Phao-lô đáp: “Anh em làm gì mà khóc lóc cho đau lòng tôi. Chẳng những tôi chịu trói mà còn sẵn lòng chịu chết vì danh Chúa Giê-su tại Giê-ru-sa-lem!” Sau khi không thuyết phục được Phao-lô thì họ nói rằng: “Nguyện ý Chúa được nên!” Sau đó, chúng tôi chuẩn bị và đi lên Giê-ru-sa-lem. Có vài môn đồ ở Sê-sa-rê cùng đi và đưa chúng tôi đến trọ tại nhà của Ma-na-sơn, một người Síp và là một môn đồ kỳ cựu. Phao-lô Viếng Thăm Gia-cơ Đến Giê-ru-sa-lem, chúng tôi được anh em tín hữu vui mừng tiếp đón. Hôm sau, Phao-lô cùng chúng tôi đến thăm Gia-cơ. Tất cả các trưởng lão đều có mặt. Chào hỏi xong, Phao-lô tường thuật từng chi tiết những việc Đức Chúa Trời đã thực hiện giữa các dân tộc ngoại quốc qua chức vụ mình. Nghe xong, họ ca ngợi Đức Chúa Trời, rồi bảo Phao-lô: “Anh ơi, anh thấy không? Bao nhiêu vạn người Do Thái đã tin theo Đạo và tất cả đều cuồng nhiệt về Kinh Luật Môi-se. Họ đã được báo cáo rằng anh dạy người Do Thái ở khắp các nước ngoài bỏ Kinh Luật Môi-se, đừng làm lễ cắt bì cho trẻ con và đừng theo tục lệ Do Thái nữa. Chắc hẳn họ đã nghe tin về anh rồi, bây giờ chúng ta phải làm sao? Vậy anh nên nghe lời chúng tôi khuyên: Ở đây có bốn người mắc lời hứa nguyện. Anh cứ đưa họ đi và làm lễ tẩy sạch với họ, cũng chịu tiền cho họ xuống tóc, thì mọi người sẽ biết rằng người ta đã báo cáo không đúng về anh, chứ anh cũng tuân giữ Kinh Luật. Về những tín hữu trong các dân tộc ngoại quốc, chúng tôi đã viết thư cho họ biết rằng họ không được ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngạt và đừng gian dâm.” Phao-lô đem bốn người ấy đi và hôm sau cùng làm lễ tẩy sạch với họ. Rồi ông vào đền thờ báo cáo ngày nào cuộc tẩy sạch sẽ hoàn tất và lễ vật sẽ dâng lên cho mỗi người trong nhóm mình. Phao-lô Bị Bắt Trong Đền Thờ Gần xong bảy ngày ấy, bỗng có mấy người Do Thái gốc Tiểu Á thấy Phao-lô trong đền thờ. Họ liền sách động quần chúng bắt Phao-lô, và gào thét: “Hỡi các người Y-sơ-ra-ên! Giúp chúng tôi với! Chính tên này đã tuyên truyền khắp nơi, xui giục mọi người chống lại dân tộc, Kinh Luật và Nơi Thánh này.” Hơn thế nữa, hắn còn dẫn người Hy-lạp vào trong đền thờ, làm ô uế Nơi Thánh này. Vì trước đó họ đã thấy Trô-phim, người Ê-phê-sô ở trong thành phố với Phao-lô, nên họ tưởng ông đem Trô-phim vào trong đền thờ. Cả thành phố đều náo loạn, dân chúng từ khắp nơi chạy đến, bắt Phao-lô kéo ra khỏi đền thờ. Lập tức, các cửa đền đóng lại. Họ đang tìm cách giết Phao-lô thì viên tư lệnh quân La Mã được tin báo rằng cả thành phố đều rối loạn. Lập tức, ông điều động một số sĩ quan và binh sĩ tức tốc kéo đến chỗ đám đông. Thấy viên quan La Mã và binh sĩ, dân chúng ngưng tay không đánh đập Phao-lô nữa. Viên quan đến gần, bắt Phao-lô và ra lệnh trói lại bằng hai sợi xích, rồi mới hỏi: “Tên này là ai? Đã làm những gì?” Trong đám đông người gào thế này, kẻ thét thế kia, tạo nên một sự lộn xộn đến nỗi viên quan không thể nào tìm biết sự việc diễn tiến ra sao cả, nên ông ra lệnh cho binh sĩ giải Phao-lô vào trong đồn. Khi Phao-lô lên tới các bậc thềm, dân chúng càng hung bạo đến nỗi binh sĩ phải khiêng ông đi. Dân chúng kéo theo đông đảo, gầm thét: “Giết nó đi!” Phao-lô Tự Biện Hộ Trước Người Do Thái Khi sắp được khiêng vào trong đồn, Phao-lô hỏi viên quan: “Tôi có được phép ngỏ đôi lời với ngài không?” Viên quan nói: “Anh biết tiếng Hy Lạp sao? Thế anh không phải là tên phản loạn Ai Cập trước đây đã lãnh đạo bốn ngàn quân khủng bố kéo vào đồng hoang sao?” Phao-lô đáp: “Tôi là người Do Thái, quê ở Tạc-sơ, thuộc Si-li-si, công dân một thành danh tiếng. Xin ngài cho tôi được nói với dân chúng!” Được phép rồi, Phao-lô đứng trên bực thềm đồn quân, ra hiệu cho dân chúng. Khi ai nấy yên lặng, ông phát biểu bằng tiếng A-ram rằng: “Thưa quý anh, quý cha, xin quý vị nghe tôi phân trần.” Nghe ông nói tiếng A-ram dân chúng càng yên lặng. Phao-lô tiếp: “Tôi là người Do Thái, sinh tại Tạc-sơ thuộc Si-li-si nhưng được dưỡng dục trong thành phố này, học với giáo sư Ga-ma-liên. Tôi được giáo dục một cách nghiêm nhặt về Kinh Luật của tổ tiên và có nhiệt tâm đối với Đức Chúa Trời cũng như tất cả quý vị ngày nay. Tôi đã bắt bớ những người theo Đạo này cho đến chết, bắt trói cả đàn ông lẫn đàn bà mà tống giam vào ngục; điều này vị trưởng tế và cả Hội Đồng Trưởng Lão có thể xác nhận cho tôi. Tôi còn xin họ viết các bức thư giới thiệu cho các vị lãnh đạo ở Đa-mách để tôi thân hành đến tận nơi bắt trói các người theo Đạo này giải về Giê-ru-sa-lem trừng trị. Trên đường đi, gần đến thành Đa-mách, khoảng giữa trưa, bỗng có ánh sáng cực kỳ chói lọi từ trời rọi xuống xung quanh tôi. Tôi ngã nhào xuống đất, và nghe có tiếng nói rằng: ‘Sau-lơ, Sau-lơ, tại sao ngươi bắt bớ Ta?’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, Chúa là ai?’ Ngài đáp lời tôi: ‘Ta là Giê-su, người Na-xa-rét mà con đang bắt bớ.’ Lúc ấy những bạn đồng hành với tôi đều thấy ánh sáng ấy nhưng họ không nghe tiếng phán cùng tôi. Tôi hỏi: ‘Lạy Chúa, con phải làm chi?’ Chúa đáp: ‘Con hãy đứng dậy, đi vào thành Đa-mách, tại đó con sẽ được chỉ bảo tất cả những gì Đức Chúa Trời sắp xếp cho con làm!’ Vì ánh sáng rực rỡ đó nên tôi bị mù mắt; các bạn đồng hành nắm tay tôi dẫn vào thành Đa-mách. Tại Đa-mách, có A-na-nia một người sốt sắng vâng giữ Kinh Luật, được tất cả đồng bào Do Thái địa phương kính trọng. Ông ấy đến thăm, đứng gần tôi và bảo: ‘Anh Sau-lơ, hãy nhìn thấy rõ trở lại!’ Ngay lúc ấy, tôi nhìn thấy A-na-nia.” Ông tiếp: “Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta đã an bài từ trước cho anh biết ý chỉ Ngài, được gặp Đấng Công Chính và được nghe tiếng Ngài phán dạy, vì anh sẽ làm chứng cho Ngài trước mặt mọi người về những điều anh đã thấy và nghe. Bây giờ, anh còn chờ đợi gì nữa? Anh hãy đứng dậy, kêu cầu Danh Chúa và chịu phép báp-tem để được thanh tẩy tội lỗi mình đi! Trở về Giê-ru-sa-lem, đang lúc cầu nguyện trong đền thờ thì tôi xuất thần, thấy Chúa phán bảo tôi: ‘Nhanh lên, con hãy ra khỏi Giê-ru-sa-lem ngay vì họ sẽ không công nhận lời chứng của con về Ta đâu!’ Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, họ biết con đã từng bắt bớ, đánh đập các tín đồ của Chúa khắp các hội đường, và khi họ giết Ê-tiên thì con đứng bên họ, tán thành việc họ làm, và giữ quần áo cho những kẻ giết người.’ Nhưng Chúa bảo tôi: ‘Con hãy đi vì Ta sai con đến các dân tộc ngoại quốc ở nơi xa xăm!’ ” Dân chúng nghe đến đây liền nổi lên hò hét: “Hãy tiêu diệt loại người đó khỏi mặt đất! Nó không đáng sống nữa!” Họ gào thét, phất áo tung bụi đất lên trời. Viên quan truyền đem Phao-lô vào đồn tra tấn bằng roi đòn để biết rõ vì sao mà ông bị dân chúng tố cáo. Khi bị căng ra để đánh đòn, Phao-lô hỏi một sĩ quan đứng gần: “Công dân La Mã chưa thành án mà đã bị đánh đòn thì có hợp pháp không?” Nghe câu ấy, sĩ quan này liền đến báo cáo cho viên quan: “Ngài định làm gì đây? Vì tên này có quốc tịch La Mã!” Viên quan đến gặp Phao-lô mà hỏi: “Anh khai thật đi! Anh có phải là công dân La Mã không?” Phao-lô đáp: “Phải!” Viên quan tiếp: “Ta phải trả một số tiền lớn mới được quốc tịch La Mã đấy!” Phao-lô đáp: “Còn tôi sinh ra thì đã là công dân La Mã rồi!” Các binh sĩ sắp tra tấn ông lập tức rút lui. Viên quan cũng lo sợ vì đã xiềng xích một công dân La Mã. Hôm sau, muốn biết chắc chắn vì lý do nào người Do Thái tố cáo Phao-lô, viên quan cởi giây xích cho Phao-lô và ra lệnh triệu tập các thượng tế và toàn thể Hội Đồng, rồi đưa Phao-lô ra đứng trước mặt họ. Phao-lô Trước Hội Đồng Quốc Gia Do Thái Phao-lô nhìn thẳng vào Hội Đồng và nói: “Thưa các anh em, cho đến nay tôi vẫn sống trước mặt Đức Chúa Trời với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.” Mới nghe đến đó, trưởng tế An-na-nia ra lệnh cho những kẻ đứng gần Phao-lô vả vào miệng ông, Phao-lô nói: “Đức Chúa Trời sẽ đánh ông, bức tường sơn trắng kia! Ông chiếu luật ngồi xét xử tôi, mà ra lệnh đánh tôi trái luật sao?” Những kẻ đứng gần đó trách: “Anh dám sỉ nhục vị trưởng tế của Đức Chúa Trời sao?” Phao-lô đáp: “Các anh ơi, tôi đâu có biết đó là vị trưởng tế! Vì Kinh Thánh đã chép: Ngươi đừng mạ lỵ các nhà lãnh đạo dân mình!” Vì biết Hội Đồng gồm hai thành phần: Sa-đu-sê và Pha-ri-si, Phao-lô tuyên bố: “Thưa các anh em, tôi là người Pha-ri-si, con của người Pha-ri-si! Tôi bị đưa ra tòa chính vì niềm hy vọng về sự sống lại của người chết!” Nghe ông nói thế, Hội Đồng chia ra hai phe: Người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê tranh chấp với nhau. Người Sa-đu-sê nói rằng người chết không bao giờ sống lại, cũng chẳng tin có thiên sứ, thần linh, còn người Pha-ri-si thừa nhận cả ba điều đó. Có cuộc cãi vã to tiếng và mấy giáo sư Kinh Luật thuộc phái Pha-ri-si đứng dậy, hết sức tranh luận rằng: “Chúng ta không tìm thấy người này có tội ác gì cả! Biết đâu một thần linh hoặc một thiên sứ đã phán bảo ông ta?” Thấy cuộc tranh chấp trở nên dữ dội, viên quan sợ Phao-lô bị họ xé xác nên ra lệnh cho các binh sĩ xuống dùng sức mạnh kéo ông ra khỏi Hội Đồng và đem vào đồn. Đêm sau, Chúa đến đứng bên cạnh Phao-lô bảo: “Con cứ can đảm lên! Con đã làm chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem thể nào, con cũng phải làm chứng tại Rô-ma thể ấy!” Đến sáng, người Do Thái âm mưu với nhau và thề sẽ nhịn ăn nhịn uống cho đến khi nào giết được Phao-lô. Có hơn bốn mươi người tham gia âm mưu ám sát này. Họ đến trình với các thượng tế và các trưởng lão: “Chúng tôi đã thề sẽ tuyệt thực cho đến khi nào giết được Phao-lô. Bây giờ, xin quý vị và Hội Đồng yêu cầu viên quan La Mã giải nó xuống, làm như quý vị muốn điều tra vụ này cho chính xác hơn. Còn chúng tôi sẽ chuẩn bị sẵn sàng để giết nó trước khi nó đến đây.” Nhưng cháu gọi Phao-lô bằng cậu nghe trộm được âm mưu này, liền vào đồn báo tin cho Phao-lô. Phao-lô gọi một đội trưởng và yêu cầu: “Xin đội trưởng đưa cậu này lên gặp vị tư lệnh, vì cậu ấy cần có việc báo cáo!” Đội trưởng đem cậu này lên trình tư lệnh: “Tù nhân Phao-lô yêu cầu tôi đưa thanh niên này lên quan. Cậu ấy có việc cần báo cáo!” Viên tư lệnh nắm tay thanh niên, kéo riêng ra một nơi mà hỏi: “Cậu có việc gì cần báo cáo cho ta?” Cậu thưa: “Người Do Thái đã cấu kết với nhau thỉnh cầu ngài đưa Phao-lô ra trước Hội Đồng ngày mai, làm như họ muốn điều tra vụ này thêm cho chính xác hơn. Nhưng xin ngài đừng nghe lời họ. Vì hiện có hơn bốn mươi người trong bọn họ đang mai phục chờ Phao-lô đến, những người này đã thề nhịn ăn nhịn uống cho đến khi nào giết được ông ta. Bây giờ, họ đã sẵn sàng, chỉ chờ ngài chấp thuận!” Viên tư lệnh cho cậu thanh niên ra về và dặn: “Cậu đừng nói cho ai biết rằng cậu đã báo cáo những điều này cho ta!” Rồi ông gọi hai đội trưởng vào ra lệnh: “Hãy chuẩn bị sẵn sàng hai trăm bộ binh, bảy mươi kỵ binh và hai trăm lính cầm giáo, ngay chín giờ tối nay xuất quân đi Sê-sa-rê. Cũng sắm sửa ngựa cho Phao-lô cưỡi để đưa ông ta lên thống đốc Phê-lít cho an toàn!” Viên tư lệnh cũng viết một công văn như sau: “Cơ-lâu Ly-sia, Kính gởi ngài thống đốc Phê-lít, Kính chào ngài thống đốc. Người Do Thái bắt người này sắp giết đi, thì tôi đem quân vào cứu kịp, vì biết rằng đương sự có quốc tịch La Mã. Muốn biết rõ tội trạng họ tố cáo, tôi đã đưa đương sự ra Hội Đồng. Tôi chỉ thấy họ tố cáo đương sự những vấn đề giáo luật của họ, chứ chẳng có tội gì đáng xử tử hoặc bỏ tù. Được tin có âm mưu ám hại đương sự, nên tôi lập tức giải đương sự lên trình thống đốc. Tôi cũng ra lệnh cho bọn nguyên cáo đến hầu quý tòa để trình bày cáo trạng…” Tuân lệnh, lính La Mã đang đêm đưa Phao-lô xuống tận An-ti-ba-tri. Hôm sau, kỵ binh tiếp tục đem ông đến Sê-sa-rê, còn các đơn vị khác quay về đồn. Đến Sê-sa-rê, đội kỵ binh trình công văn và giao nạp Phao-lô cho thống đốc. Đọc công văn và hỏi quê quán của Phao-lô cùng biết được ông gốc tỉnh Si-li-si, thống đốc bảo: “Khi nào bọn nguyên cáo đến hầu tòa, tôi sẽ nghe anh khai!” Rồi thống đốc ra lệnh giam giữ Phao-lô trong điện Hê-rốt. Phiên Tòa Xử Vụ Phao-lô Năm ngày sau, trưởng tế A-na-nia xuống Sê-sa-rê, cùng với các trưởng lão và một nhà hùng biện tên Tê-tu-lu để tố cáo Phao-lô trước tòa thống đốc. Khi Phao-lô được gọi đến, Tê-tu-lu bắt đầu buộc tội như sau: “Thưa ngài thống đốc, nhờ ngài thấy xa, thi hành cải cách, mà quốc gia chúng tôi được hưởng thái bình lâu dài. Vì thế, thưa ngài thống đốc Phê-lít! Bất cứ nơi nào và bất luận việc gì, chúng tôi cũng xin hoan nghênh ngài với cả tấm lòng tri ân. Nhưng muốn khỏi phiền ngài thêm nữa, kính xin ngài kiên nhẫn nghe chúng tôi trình bày vắn tắt vài lời. Chúng tôi bắt gặp tên ôn dịch này giữa lúc nó đi lại xúi giục người Do Thái khắp thế giới. Nó là tên đầu đảng phe Na-xa-rét; Nó còn toan tính làm ô uế đền thờ, nên chúng tôi bắt nó, và chúng tôi muốn xử nó theo luật của chúng tôi.24:7 Một số bản cổ thêm câu này Ngài có thể đích thân thẩm vấn nó mọi chi tiết để biết rõ những điều chúng tôi tố cáo.” Các nhà lãnh đạo Do Thái cũng hùa theo, quả quyết rằng nội vụ thật đúng như vậy. Thống đốc ra dấu bảo Phao-lô khai, ông liền nói: “Tôi biết ngài đã làm thẩm phán cho nước này lâu năm nên tôi hân hoan tự biện hộ. Như ngài có thể phối kiểm, tôi vừa về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng không quá mười hai ngày nay. Họ không hề bắt gặp tôi, hoặc trong đền thờ, hoặc trong các hội đường, hoặc trong thành phố, đang tranh luận với ai hay tụ tập đám đông bao giờ. Họ cũng chẳng đưa ra được tang chứng nào về những điều họ tố cáo tôi. Nhưng tôi xin nhìn nhận với ngài một điều: Tôi thờ phượng Đức Chúa Trời của tổ tiên theo Đạo mà họ bảo là một bè phái. Tôi tin tất cả những điều ghi chép trong Kinh Luật Môi-se và Kinh Tiên Tri. Cũng như họ, tôi đặt niềm hy vọng nơi Đức Chúa Trời, trông mong sự sống lại của kẻ chết, cả người công chính lẫn người bất chính. Do đó, tôi luôn luôn cố gắng giữ lương tâm không chê trách trước mặt Đức Chúa Trời và loài người. Sau nhiều năm xa vắng, tôi về thăm tổ quốc, đem theo nhiều tặng phẩm cứu tế và lễ vật dâng hiến. Khi họ bắt gặp tôi trong đền thờ, thì tôi đang làm lễ tẩy sạch, chứ tôi không tụ tập dân chúng hoặc gây náo loạn gì cả. Nhưng mấy người Do Thái quê tỉnh Tiểu Á, nếu họ có điều gì khiếu nại thì cứ đứng ra tố cáo tôi đi, hay các người ở đây phải cho tôi biết tôi đã phạm tội gì khi tôi ứng hầu trước Hội Đồng, họa chăng chỉ có một câu tôi lớn tiếng giãi bày: ‘Tôi bị ra tòa hôm nay chỉ vì tin rằng người chết sẽ sống lại!’ ” Thống đốc Phê-lít đã biết rõ về Đạo nên cho hoãn phiên tòa: “Khi nào Tư lệnh Ly-sia đến đây, ta sẽ phán quyết nội vụ!” Thống đốc ra lệnh cho một đội trưởng canh giữ Phao-lô, nhưng để ông được thong thả và cho phép bạn hữu ông cung cấp những gì cần thiết. Mấy ngày sau, Phê-lít cùng vợ là Đa-ru-si, người Do Thái, đến tòa án cho gọi Phao-lô và nghe ông giảng giải về đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Nghe Phao-lô giải luận về công chính, tự chủ và cuộc phán xét tương lai, Phê-lít lo sợ bảo: “Bây giờ anh về đi! Khi nào có dịp, tôi sẽ gọi lại!” Đồng thời, Phê-lít cũng mong Phao-lô đút lót cho mình nên thường đòi ông đến nói chuyện. Hai năm sau, Bốt-kiu Phê-tu đến thay Phê-lít. Muốn được lòng người Do Thái, Phê-lít cứ giam giữ Phao-lô trong ngục. Phao-lô Khiếu Nại Lên Hoàng Đế La Mã Sau khi nhậm chức được ba ngày, thống đốc Phê-tu rời Sê-sa-rê lên Giê-ru-sa-lem. Các thượng tế và các nhà lãnh đạo Do Thái buộc tội Phao-lô, và xin thống đốc đặc ân cho giải ông về Giê-ru-sa-lem (vì họ định phục kích giết ông dọc đường). Vì thế, Phê-tu đáp: “Phao-lô đang bị giam giữ tại Sê-sa-rê và chính ta cũng sắp về đó. Vậy một vài bậc lãnh đạo trong vòng các ông hãy theo ta xuống đó, nếu đương sự có tội gì thì cứ việc tố cáo!” Phê-tu lưu lại với họ tám hoặc mười ngày, rồi xuống Sê-sa-rê. Hôm sau thống đốc ra tòa, truyền lệnh giải Phao-lô đến. Phao-lô vừa vào tòa án, những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem xuống liền vây quanh tố cáo ông nhiều tội nặng nhưng không nêu được bằng chứng. Phao-lô tự biện hộ: “Tôi chẳng phạm tội gì trái luật Do Thái, hoặc xúc phạm đền thờ, hoặc chống nghịch hoàng đế La Mã bao giờ.” Nhưng Phê-tu muốn được lòng dân Do Thái, nên hỏi Phao-lô: “Anh có muốn lên Giê-ru-sa-lem cho ta xét xử việc này không?” Phao-lô đáp: “Tôi đang ứng hầu trước tòa án Hoàng Đế là nơi tôi phải được xét xử. Tôi chẳng phạm tội gì với người Do Thái, chính ngài thống đốc thừa biết như thế. Vậy nếu tôi phạm pháp hoặc làm gì đáng bị tử hình thì tôi không xin tha chết đâu! Nhưng nếu họ tố cáo tôi vô bằng cớ thì không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi khiếu nại lên Hoàng Đế!” Phê-tu thảo luận với các cố vấn rồi đáp: “Anh đã khiếu nại lên Hoàng Đế thì sẽ được ứng hầu Hoàng Đế!” Phê-tu Và Vua Ạc-ríp-ba Mấy ngày sau vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít đến Sê-sa-rê chào Phê-tu. Hai người lưu lại đây nhiều ngày; Phê-tu đem vụ Phao-lô trình bày với vua: “Phê-lít có để lại một tù nhân. Khi tôi ở Giê-ru-sa-lem các thượng tế và các trưởng lão Do Thái buộc tội nó và yêu cầu tôi kết án. Tôi đáp rằng theo thông lệ La Mã, không thể nào giải nạp một bị cáo khi chưa có dịp đối chất với nguyên cáo để tự bào chữa. Khi họ họp tại đây, tôi triệu tập phiên tòa ngay hôm sau, không trì hoãn và truyền giải đương sự đến. Các nguyên cáo đứng trước tòa chẳng tố cáo đương sự về tội ác nào như tôi tưởng, nhưng chỉ tranh chấp với đương sự về những vấn đề trong tôn giáo của họ và về một người tên Giê-su đã chết nhưng Phao-lô quả quyết vẫn còn sống. Tôi thật khó hiểu cuộc tranh luận này nên hỏi Phao-lô có muốn lên Giê-ru-sa-lem để hầu tòa về vụ này không. Khi Phao-lô khiếu nại xin trình lên Hoàng Đế phán quyết, thì tôi ra lệnh cứ giam giữ đương sự cho đến ngày giải nạp đương sự lên Hoàng Đế.” Ạc-ríp-ba bảo Phê-tu: “Chính ta cũng muốn nghe người ấy nói!” Phê-tu thưa: “Ngày mai, bệ hạ sẽ nghe!” Hôm sau, Ạc-ríp-ba và bà Bê-rê-nít ngự vào công đường với nghi lễ long trọng cùng các quan cao cấp và các nhà lãnh đạo trong thành phố. Phê-tu ra lệnh điệu Phao-lô đến, rồi ngỏ lời: “Tâu bệ hạ và tất cả quý vị quan khách, Người này đã bị toàn dân Do Thái xin tôi kết án, tại Giê-ru-sa-lem cũng như tại Sê-sa-rê đây. Họ nói rằng đương sự không đáng sống nữa. Tôi thấy đương sự chẳng phạm tội gì đáng xử tử cả, nhưng vì đương sự khiếu nại lên Hoàng Đế La Mã nên tôi quyết định giải đương sự đến Rô-ma. Tuy nhiên, tôi chưa có lý do gì cụ thể để viết sớ tâu trình hoàng đế. Vì thế, tôi cho điệu đương sự đến hầu quý vị, nhất là bệ hạ, tâu vua Ạc-ríp-ba, để nhờ cuộc điều tra này mà tôi có tài liệu viết sớ. Thiết tưởng giải nạp một tù nhân mà không định rõ tội trạng thật là phi lý!” Phao-lô Tự Biện Hộ Trước Tòa Vua Ạc-ríp-ba Vua Ạc-ríp-ba bảo Phao-lô: “Nhà ngươi được phép tự biện hộ!” Vậy, Phao-lô đưa tay lên rồi tự bào chữa: “Tâu vua Ạc-ríp-ba! Tôi lấy làm may mắn được hầu tòa bệ hạ hôm nay để tự biện hộ về những điều người Do Thái tố cáo tôi, đặc biệt nhất vì bệ hạ đã quen thuộc cả phong tục, tập quán lẫn những cuộc tranh chấp của người Do Thái. Vì thế, kính xin bệ hạ kiên nhẫn nghe tôi trình bày. Người Do Thái đều biết rõ nếp sống tôi từ thời thơ ấu. Họ biết từ ban đầu tôi đã sinh hoạt cách nào tại quê hương cũng như tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã biết tôi từ lâu và có thể làm chứng là tôi đã hành xử đúng với cung cách người Pha-ri-si, là phái nghiêm khắc nhất của tôn giáo chúng tôi. Bây giờ, chính vì niềm hy vọng nơi lời hứa của Đức Chúa Trời với các tổ phụ tôi mà hôm nay tôi phải bị xét xử. Lời hứa ấy cả mười hai bộ tộc chúng tôi đều hy vọng được hưởng trong khi sốt sắng thờ phượng Đức Chúa Trời ngày đêm. Muôn tâu, chính vì niềm hy vọng ấy mà tôi đang bị người Do Thái tố cáo! Tại sao trong quý vị có người cho rằng việc Đức Chúa Trời khiến người chết sống lại là điều không thể nào tin được? Chính tôi đã từng nghĩ rằng phải tìm đủ cách chống lại Danh Giê-su ở Na-xa-rét. Đó là điều tôi đã thi hành tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế ủy quyền, tôi đã bắt bớ nhiều người thánh, tống giam họ vào ngục; và khi họ bị kết án xử tử thì tôi cũng tán thành. Nhiều phen tôi đi khắp các hội đường để trừng phạt họ, cố gắng ép buộc họ nói phạm thượng. Tôi căm giận họ đến nỗi đi ra tận các thành phố ngoại quốc để bắt bớ họ. Chính vì mục đích ấy, sau khi được các thượng tế ủy quyền và cho phép, tôi đi lên Đa-mách. Trên đường đi, vào lúc giữa trưa, muôn tâu, tôi bỗng thấy ánh sáng từ trời, sáng hơn cả mặt trời, ánh sáng chiếu xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành. Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất. Tôi nghe một tiếng phán cùng tôi bằng ngôn ngữ Hê-bơ-rơ: ‘Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bức hại Ta? Đá vào gậy nhọn thì phải chịu đau đớn!’ Tôi hỏi: ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’ Chúa đáp: ‘Ta là Giê-su mà ngươi đang bức hại! Nhưng hãy ngồi dậy, đứng lên! Ta xuất hiện gặp con nhằm mục đích lập con làm đầy tớ và nhân chứng về những điều con thấy nơi Ta cùng những điều Ta sẽ tỏ cho con sau này. Ta sẽ giải cứu con khỏi người Do Thái và các dân tộc ngoại quốc mà Ta sai con đến để mở mắt họ, dìu dắt họ từ tối tăm quay về ánh sáng, từ quyền lực của Sa-tan trở lại với Đức Chúa Trời, và nhờ tin Ta họ được tha tội và hưởng phần cơ nghiệp với các thánh đồ.’ Muôn tâu, vì thế, tôi không dám bất phục khải tượng từ trời. Nhưng tôi kêu gọi mọi người, trước hết ở Đa-mách, rồi sau tại Giê-ru-sa-lem, khắp cả vùng Giu-đê và các dân ngoại phải ăn năn, quay về Đức Chúa Trời và làm công việc xứng hợp với sự ăn năn. Vì lý do đó, người Do Thái đã bắt tôi trong đền thờ và toan giết tôi. Nhưng tôi đã được Đức Chúa Trời phù hộ cho đến ngày nay, nên tôi còn đứng đây làm chứng cho mọi người lớn nhỏ, không nói gì hơn những điều các tiên tri của Chúa và Môi-se tiên báo sẽ xảy ra, tức là Chúa Cứu Thế sẽ phải chịu thương khó nhưng sẽ sống lại đầu tiên trong số những người đã chết, rồi công bố ánh sáng cho dân Ngài và các dân tộc ngoại quốc.” Đến đây, Phê-tu lớn tiếng ngắt lời Phao-lô: “Ngươi điên rồi, Phao-lô ơi! Ngươi học quá nhiều đến nỗi quẫn trí!” Phao-lô đáp: “Thưa ngài thống đốc, tôi không điên đâu! Tôi chỉ nói lên sự thật và những lời hợp lý. Đức vua thừa biết những sự kiện này nên tôi bạo dạn trình bày. Tôi tin chắc rằng trong những việc này, chẳng có điều nào che giấu được đức vua vì sự việc không xảy ra trong bóng tối đâu! Muôn tâu, bệ hạ có tin các tiên tri của Chúa không? Tôi biết bệ hạ tin!” Vua Ạc-ríp-ba bảo Phao-lô: “Chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà ngươi tưởng có thể làm cho ta thành môn đồ Chúa Cứu Thế sao?” Phao-lô đáp: “Dù thời gian dài hay ngắn, tôi cầu xin Đức Chúa Trời cho bệ hạ và tất cả quý vị đang nghe tôi nói hôm nay đều trở thành như tôi, ngoại trừ xiềng xích này!” Vua Ạc-ríp-ba, thống đốc, bà Bê-rê-nít và tất cả quan khách đều đứng dậy. Khi ra về, họ bảo nhau: “Người này chẳng làm điều gì đáng xử tử hoặc bỏ tù cả!” Vua Ạc-ríp-ba bảo Phê-tu: “Nếu đương sự không khiếu nại lên Hoàng Đế thì có thể phóng thích!” Phao-lô Được Giải Đi Rô-ma Khi đã quyết định cho chúng tôi đi tàu thủy qua nước Y-ta-li, người ta giao Phao-lô và vài tù nhân khác cho đội trưởng Giu-li, thuộc trung đoàn ngự lâm quân. Chúng tôi đáp một chiếc tàu đến từ A-tra-mít sắp chạy về các hải cảng tỉnh Tiểu Á. Tàu nhổ neo ra khơi. Có A-ri-tạc, người Ma-xê-đoan ở Tê-sa-lô-ni-ca, cùng đi với chúng tôi. Hôm sau, chúng tôi đến Si-đôn. Đội trưởng Giu-li đối xử tử tế với Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và được họ chăm sóc. Rời bến Si-đôn, vì bị ngược gió, tàu chúng tôi phải chạy sát đảo Síp. Chúng tôi vượt ngang hải phận Si-li-si và Bam-phi-li, đến My-ra, thuộc Ly-sia. Tại đây, đội trưởng thấy một chiếc tàu từ A-lê-xan-đơ-ri đến, sắp đi Y-ta-li, liền cho chúng tôi lên tàu. Tàu chúng tôi chạy chậm chạp mất nhiều ngày, phải vất vả lắm mới đến ngang thành phố Cơ-nít. Vì gió ngược, tàu phải chạy sát đảo Cơ-rết vượt ngang Mũi Sanh-môn. Cứ chạy sát bờ biển, chật vật lắm tàu mới đến một bến gọi là Mỹ Cảng, gần thành phố La-sê. Chúng tôi ở lại đây một thời gian dài, quá ngày đại lễ Chuộc Tội; đến lúc này vượt biển thật là nguy hiểm. Phao-lô khuyên họ: “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải trình từ đây thật nguy hiểm, chẳng những thiệt hại lớn cho chiếc tàu và hàng hóa, mà còn nguy hiểm cho tính mạng chúng ta nữa.” Nhưng đội trưởng Giu-li tin lời bàn của thuyền trưởng và chủ tàu hơn lời Phao-lô nói. Vì hải cảng này không tiện đậu mùa đông, nên đa số đồng ý ra khơi, để may ra có thể chạy đến Phê-nít để tạm trú qua mùa đông. Phê-nít là một hải cảng của đảo Cơ-rết, về hướng tây nam và tây bắc. Thấy gió nam bắt đầu thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được điều dự định, nên nhổ neo chạy dọc theo bờ đảo Cơ-rết. Bị Bão Chìm Tàu Chẳng bao lâu, một trận bão dữ dội tên là Đông Bắc từ trên đảo thổi quật xuống. Tàu bị bão dập dồi, không thể nào chạy ngược chiều gió được nữa, nên chúng tôi bỏ mặc cho gió cuốn tàu đi. Tạt ngang phía nam một đảo nhỏ tên là Cơ-lô-đa, chúng tôi phải chật vật lắm mới giữ được chiếc thuyền cấp cứu. Người ta kéo thuyền lên và tìm cách buộc chặt tàu lại. Sợ bị mắc cạn trên bãi cát ngoài hải phận Si-rơ-tơ, nên họ thả neo xuống, để mặc cho tàu bị cuốn đi. Bão tiếp tục thổi vô cùng dữ dội, nên hôm sau, người ta quăng hàng hóa xuống biển. Ngày thứ ba, hành khách tự tay ném dụng cụ trên tàu xuống biển. Suốt nhiều ngày, mặt trời không xuất hiện, các ngôi sao cũng không, mà bão thì cứ tiếp tục thổi rất mạnh. Rốt cuộc, chúng tôi đành tuyệt vọng, không còn mong được cứu thoát nữa. Sau khi cả tàu nhịn ăn lâu ngày, Phao-lô đứng dậy giữa mọi người khuyên nhủ: “Thưa các ông, giá các ông nghe lời tôi và không rời đảo Cơ-rết thì đã khỏi bị thiệt hại mất mát như thế này. Nhưng bây giờ, tôi khuyên các ông hãy vui lên! Vì không một ai trong các ông thiệt mạng cả, chỉ mất chiếc tàu mà thôi. Đêm qua, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng bên tôi bảo rằng: ‘Phao-lô ơi! Đừng sợ vì anh phải ứng hầu Hoàng Đế La Mã và này, Đức Chúa Trời đã ban cho anh tất cả những người đồng thuyền với anh, tôi thuộc về Đức Chúa Trời và đang phục vụ Ngài. Vậy, xin các ông hãy vui lên đi! Vì tôi tin chắc nơi Đức Chúa Trời rằng sự việc sẽ xảy ra như lời đã phán cùng tôi. Nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ phải tấp vào một hòn đảo nào đó!’ Đã đến đêm thứ mười bốn mà chúng tôi vẫn lênh đênh giữa biển A-đờ-ria. Khoảng nửa đêm, các thủy thủ đoán rằng tàu chúng tôi đang tới gần một vùng đất nào đó. Họ thả trái dò đo được hai mươi sải; đi một ít nữa, lại dò thấy mười sải. Sợ tàu đụng phải đá ngầm, họ thả bốn neo đặt sau lái xuống biển, đợi đến sáng. Các thủy thủ tìm cách trốn khỏi tàu nên họ hạ chiếc thuyền con xuống giả bộ đi thả neo trước mũi tàu. Phao-lô bảo đội trưởng Giu-li và các binh sĩ: ‘Nếu những người này không ở lại trên tàu thì quý ông không được cứu thoát đâu!’ ” Các binh sĩ liền cắt các dây buộc, cho chiếc thuyền con rơi xuống biển. Trời gần sáng, Phao-lô nài khuyên mọi người hãy ăn: “Hôm nay nữa là được mười bốn ngày các ông nhịn ăn, chờ đợi, không ăn gì cả. Vì thế, tôi nài khuyên các ông hãy ăn để bảo toàn mạng sống. Vì không một ai trong các ông sẽ mất đến một sợi tóc trên đầu!” Vừa nói ông vừa lấy bánh, tạ ơn Đức Chúa Trời trước mặt mọi người rồi bẻ ăn. Mọi người đều được khích lệ nên cũng ăn. Tổng số người trên tàu đếm được hai trăm bảy mươi sáu. Ăn no nê xong, người ta quăng lúa mì xuống biển cho nhẹ tàu. Đắm Tàu Trời đã sáng, các thủy thủ cũng không nhận ra được đó là vùng đất nào; nhưng thấy một cái vịnh có bãi cát, họ quyết định cho tàu cập vào đó. Họ cắt neo bỏ xuống biển, đồng thời mở dây buộc lái tàu, kéo buồm đàng mũi lên cho tàu theo chiều gió chạy vào bờ. Nhưng tàu chạy nhằm chỗ hai dòng nước gặp nhau, nên bị mắc cạn, mũi tàu cắm xuống bãi cát ngầm, không xoay trở được, trong khi phía đuôi tàu bị sóng đánh tan nát. Binh sĩ bàn định giết các tù nhân vì sợ có người lội trốn thoát, nhưng đội trưởng Giu-li muốn cứu Phao-lô nên bác bỏ đề nghị này. Đội trưởng ra lệnh: “Những người biết bơi cứ nhảy xuống nước trước để vào bờ, số còn lại bám vào các tấm ván, hoặc các mảnh vỡ của chiếc tàu.” Thế là tất cả đều vào tới bờ an toàn. Thoát nạn rồi, chúng tôi mới biết đây là đảo Man-ta. Thổ dân tỏ lòng tử tế khác thường với chúng tôi. Họ nhóm một đám lửa để hoan nghênh tất cả chúng tôi vì trời đang mưa và lạnh lẽo. Phao-lô lượm một bó củi chất vào lửa, bỗng một con rắn độc bị nóng bò ra quấn chặt vào bàn tay ông. Thấy con rắn đeo trên tay Phao-lô, thổ dân bảo nhau: “Anh này đúng là tay giết người nên dù thoát chết ngoài khơi mà công lý vẫn không cho sống nữa!” Nhưng Phao-lô rảy con rắn vào lửa mà không hề hấn gì cả. Thổ dân chắc rằng ông sẽ bị sưng phù lên hoặc ngã chết tức khắc; nhưng đợi đã lâu mà không thấy ông bị hại gì, họ lại đổi ý, tôn xưng ông là một vị thần. Cạnh nơi này có đất đai của tù trưởng đảo Man-ta, tên là Búp-li-u. Tù trưởng đón chúng tôi về nhà và tiếp đãi thân mật trọn ba ngày. Thân phụ của Búp-li-u bị sốt nặng và kiết lỵ, phải nằm liệt giường. Phao-lô vào thăm, cầu nguyện và đặt tay chữa lành. Sau việc đó, những người đau yếu khác trên đảo cũng kéo đến và đều được chữa lành. Họ cho chúng tôi nhiều quà. Khi rời đảo, chúng tôi được họ cung cấp đầy đủ mọi thứ cần dùng. Đến Thủ Đô Rô-ma Ba tháng sau, chúng tôi đáp một chiếc tàu tên là thần Song Sinh từ cảng A-lê-xan-đơ-ri đến, tàu này đã trú mùa đông tại đảo. Đến Si-ra-cu-sơ chúng tôi ở lại ba ngày. Từ đó tàu chạy đến thành Rê-ghi-um. Hôm sau, gió nam bắt đầu thổi, nên chạy hai ngày chúng tôi đến thành Bu-tô-lơ. Tại đây gặp anh em tín hữu, và được họ thiết tha mời mọc, chúng tôi ở lại với họ bảy ngày, rồi lên đường đi Rô-ma. Anh em tín hữu Rô-ma nghe tin chúng tôi đến đã ra tận quảng trường Áp-bi-u và Ba Quán đón tiếp. Thấy anh em, Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời và vững lòng. Vào đến thủ đô Rô-ma, đội trưởng Giu-li cho phép Phao-lô ở riêng với một binh sĩ canh giữ. Ba ngày sau, Phao-lô mời các cấp lãnh đạo Do Thái địa phương họp mặt. Phao-lô trình bày: “Thưa các anh em, tôi chẳng làm điều gì chống nghịch dân chúng hoặc phạm đến tục lệ của tổ phụ, nhưng tôi bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và giao nạp cho người La Mã. Họ đã thẩm tra, và định trả tự do cho tôi vì họ không thấy tôi có tội nào đáng xử tử cả. Nhưng một số người Do Thái phản đối, nên buộc lòng tôi phải khiếu nại lên Hoàng Đế La Mã, chứ không phải tôi có điều gì tố cáo quốc dân ta đâu! Vậy, vì lý do đó tôi mời anh em đến để gặp gỡ, chuyện trò; chính vì niềm hy vọng của Y-sơ-ra-ên mà tôi phải mang chiếc xiềng này.” Họ đáp: “Chúng tôi chẳng được thư từ gì từ xứ Giu-đê nói về anh, cũng chẳng có đồng bào nào đến đây báo cáo hoặc nói xấu anh cả. Nhưng thiết tưởng cũng nên xin anh cho biết ý kiến vì chúng tôi được biết giáo phái này bị chống đối khắp nơi.” Đúng ngày hẹn, họ kéo đến đông đảo gặp Phao-lô tại nhà trọ. Từ sáng đến chiều ông làm chứng, trình bày về Nước Đức Chúa Trời, trưng dẫn Kinh Luật Môi-se và các Kinh Tiên Tri, cố gắng thuyết phục họ tin nhận Đức Giê-su. Một số người chịu thuyết phục, còn những kẻ khác không chịu tin. Họ không đồng ý với nhau và giải tán, sau khi Phao-lô nói câu này: “Thánh Linh đã dùng tiên tri của Ngài là I-sa phán bảo tổ phụ các anh thật đúng: ‘Hãy đi bảo dân này rằng: Các ngươi cứ nghe mãi mà không hiểu. Các ngươi cứ nhìn hoài mà chẳng thấy, Vì tâm trí dân này đã chai lì, Tai nặng không nghe, Mắt nhắm chẳng chịu thấy. Họ ngại rằng mắt họ thấy rõ, Tai họ nghe ra, Trí họ hiểu được, Thì họ quay về với Ta, Đức Chúa Trời phán, Rồi Ta chữa lành cho họ.’ ”28:27 Isa 6:9-10 Phao-lô kết luận: “Vậy, anh em phải biết rằng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã được truyền bá cho các dân tộc ngoại quốc. Họ sẽ nghe theo!” Nghe nói xong, người Do Thái ra về, cãi nhau dữ dội. Phao-lô ở tại nhà trọ suốt hai năm, tiếp đón tất cả những người đến thăm, truyền giảng Nước Đức Chúa Trời và mạnh dạn dạy dỗ về Chúa Cứu Thế Giê-su, không bị ai ngăn cấm.