- New Vietnamese Bible 2014 Dân Số DÂN SỐ Dân Số Dân DÂN SỐ Giới Thiệu Tựa sách “Dân Số” dựa vào hai cuộc kiểm tra dân số ghi lại trong sách, chương 1 và chương 26. Tuy nhiên chủ đề chính trong sách không phải là cuộc kiểm tra dân số nhưng là hành trình của dân Y-sơ-ra-ên suốt 38 năm trong sa mạc, khởi điểm từ núi Si-nai và cuối cùng đến đồng bằng Mô-áp, chuẩn bị vào Đất Hứa. Sách gồm có ba phần: 1. Phần thứ nhất (1:1–9:23) Khi dân Y-sơ-ra-ên còn ở tại núi Si-nai, CHÚA bảo Môi-se kiểm tra dân số và truyền cho ông những chỉ thị về cách dân Y-sơ-ra-ên sẽ đóng trại và nhổ trại theo thứ tự như thế nào. CHÚA cũng bảo ông phân chia trách nhiệm cho bộ tộc Lê-vi. Kế đến toàn dân ăn mừng lễ Vượt Qua lần thứ nhì, họ đã dự lễ lần đầu khi còn trong xứ Ai-cập. Họ chuẩn bị lên đường, khoảng mười bốn tháng sau khi Đức Chúa Trời giải cứu họ ra khỏi Ai-cập. 2. Phần thứ nhì (10:1–21:35) kể lại những biến cố xảy ra trên đường vào đất hứa. Dân Y-sơ-ra-ên đến Ca-đê Ba-nê-a, là ngưỡng cửa vào xứ Ca-na-an. Họ nghe nói về những dân khổng lồ trong xứ đó nên sợ không dám vào chiếm xứ như CHÚA truyền dạy. Vì tội không vâng lời và thiếu lòng tin cậy CHÚA, họ bị phạt đi dông dài trong sa mạc suốt 38 năm cho đến khi tất cả dòng dõi phản loạn này ra đi từ Ai-cập chết hết trong sa mạc. Không ai được vào Đất Hứa ngoại trừ con cháu họ cùng Giô-suê và Ca-lép. 3. Phần cuối (22:1–36:13) ghi lại những việc xảy ra phía đông sông Giô-đanh. Dân Y-sơ-ra-ên chiếm được vùng đất từ biên giới Mô-áp ở phía nam cho đến hồ Ga-li-lê ở phía bắc. Họ đóng trại tại đồng bằng Mô-áp và chuẩn bị vượt qua sông Giô-đanh, vào chiếm xứ Ca-na-an. CHÚA bảo Môi-se kiểm tra dân số và truyền cho ông những luật lệ về cách phân chia đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên tùy theo bộ tộc của họ. Trong suốt cuộc hành trình dài 38 năm, dân Y-sơ-ra-ên nhiều lần tỏ ra ngoan cố, thiếu lòng tin cậy và bất tuân lệnh CHÚA. Nhưng CHÚA vẫn thành tín, yêu thương, chăm sóc và ban phước cho họ mặc dù Ngài cũng trừng trị tội lỗi họ. Bố Cục 1. Dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị rời núi Si-nai 1:1–9:23 a. Kiểm tra dân số lần đầu 1:1–4:49 b. Biệt riêng bộ tộc Lê-vi 5:1–8:26 c. Mừng lễ Vượt Qua 9:1-23 2. Từ núi Si-nai đến xứ Mô-áp 10:1–21:35 a. Mi-ri-am và A-rôn 10:1–12:16 b. Trinh sát xứ Ca-na-an 13:1-33 c. Dân Y-sơ-ra-ên nổi loạn 14:1–17:13 d. Trên đường đến Mô-áp 18:1–21:35 3. Những biến cố tại Mô-áp 22:1–36:13 a. Dân Y-sơ-ra-ên phạm tội 22:1–25:18 b. Kiểm tra dân số lần thứ nhì 26:1-65 c. Chuẩn bị qua sông Giô-đanh 27:1–36:13 Kiểm Tra Dân Số Lần Thứ Nhất Ngày mồng một tháng hai năm thứ nhì, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, CHÚA phán bảo Môi-se tại Trại Hội Kiến trong sa mạc Si-nai: “Con hãy kiểm tra dân số của toàn dân Y-sơ-ra-ên tùy theo gia tộc và gia đình, liệt kê danh sách tất cả người nam từng người một. Con và A-rôn phải đếm tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên theo từng đơn vị, từ hai mươi tuổi trở lên, là những người có khả năng phục vụ trong quân đội. Các trưởng bộ tộc sẽ đại diện cho bộ tộc mình để cộng tác với con và A-rôn. Đây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: Bộ tộc Ru-bên, Ê-li-sua, con trai Sê-đêu; Bộ tộc Si-mê-ôn, Sê-lu-miên, con trai Xu-ri-ha-đai; Bộ tộc Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp; Bộ tộc Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a; Bộ tộc Sa-bu-luân, Ê-li-áp, con trai Hê-long. Con cháu Giô-sép: Bộ tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút; Bộ tộc Ma-na-se, Ga-ma-liên, con trai Phê-đát-su. Bộ tộc Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni. Bộ tộc Đan, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai. Bộ tộc A-se, Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran. Bộ tộc Gát, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên. Bộ tộc Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai Ê-nan.” Đó là những người được bổ nhiệm từ trong dân chúng, là bộ tộc trưởng các bộ tộc của tổ phụ mình và là những người chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sơ-ra-ên. Môi-se và A-rôn tiếp nhận các người đã được nêu danh, và triệu tập toàn thể dân chúng vào ngày mồng một tháng hai theo danh sách từng người một từ hai mươi tuổi trở lên; mỗi người đăng ký theo gia tộc và gia đình mình, như CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se. Môi-se kiểm tra dân số trong sa mạc Si-nai: Con cháu Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 46,000 người. Con cháu Si-mê-ôn, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 59,300 người. Con cháu Gát, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 45,650 người. Con cháu Giu-đa, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 74,600 người. Con cháu Y-sa-ca, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 54,400 người. Con cháu Sa-bu-luân, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 57,400 người. Các con trai của Giô-sép gồm có Ép-ra-im và Ma-na-se. Con cháu Ép-ra-im, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 40,500 người. Con cháu Ma-na-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 32,200 người. Con cháu Bên-gia-min, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 35,400 người. Con cháu Đan, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 62,700 người. Con cháu A-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 41,500 người. Con cháu Nép-ta-li, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, tổng số được 53,400 người. Đó là những người mà Môi-se, A-rôn và mười hai trưởng bộ tộc của Y-sơ-ra-ên đã kiểm tra, mỗi trưởng bộ tộc đại diện cho bộ tộc mình. Tất cả người Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên và có khả năng chiến đấu được kiểm tra theo gia đình mình. Tổng số được 603,550 người. Tuy nhiên, các gia đình của bộ tộc Lê-vi không được kiểm tra như người các bộ tộc khác. CHÚA đã bảo Môi-se: “Con không nên kiểm kê bộ tộc Lê-vi, hoặc bao gồm họ trong cuộc kiểm tra dân số của người Y-sơ-ra-ên. Nhưng cử người Lê-vi đặc trách Đền Tạm Chứng Cớ, coi sóc tất cả vật dụng và những gì thuộc về Đền Tạm. Họ phải khuân vác Đền Tạm và tất cả các vật dụng, chăm sóc và cắm trại xung quanh Đền Tạm. Khi nào cần di chuyển, người Lê-vi phải tháo dỡ Đền Tạm ra; và mỗi khi dân chúng cắm trại, người Lê-vi sẽ dựng Đền Tạm lên lại. Bất cứ kẻ nào khác đến gần Đền Tạm sẽ bị xử tử. Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại theo từng đơn vị, mỗi người ở trong trại riêng dưới ngọn cờ của bộ tộc mình. Tuy nhiên người Lê-vi phải dựng trại xung quanh Đền Tạm Chứng Cớ để cơn thạnh nộ không đổ xuống trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải chịu trách nhiệm chăm sóc Đền Tạm Chứng Cớ.” Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều CHÚA truyền bảo Môi-se. Cách Bố Trí Trại Quân Y-sơ-ra-ên CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại xung quanh nhưng cách xa Trại Hội Kiến, mỗi người phải cắm trại dưới ngọn cờ của đơn vị mình với bảng hiệu bộ tộc.” Trại quân Giu-đa sẽ cắm tại phía đông, hướng mặt trời mọc với ngọn cờ và các đơn vị mình. Chỉ huy trưởng bộ tộc Giu-đa là Na-ha-sôn, con Am-mi-na-đáp. Quân số của người được 74,600 người. Bộ tộc Y-sa-ca sẽ cắm trại gần bên Giu-đa. Chỉ huy trưởng của Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con Xu-a. Quân số của người được 54,400 người. Tiếp theo là bộ tộc Sa-bu-luân. Chỉ huy trưởng của Sa-bu-luân là Ê-li-áp, con Hê-long. Quân số người được 57,400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Giu-đa, chia từng đội ngũ, được 186,400 người. Họ sẽ đi tiên phong. Trại quân Ru-bên sẽ cắm tại phía nam, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ru-bên là Ê-li-sua, con Sê-đêu. Quân số của người được 46,500 người. Bộ tộc Si-mê-ôn sẽ cắm trại gần bên Ru-bên. Chỉ huy trưởng Si-mê-ôn là Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai. Quân số của người được 59,300 người. Tiếp theo là bộ tộc Gát. Chỉ huy trưởng Gát là Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên. Quân số của người được 45,650 người. Tất cả nhân số trong trại quân Ru-bên, chia từng đội ngũ, được 151,450 người. Họ sẽ đi thứ nhì. Sau đó, Trại Hội Kiến và trại quân Lê-vi sẽ ra đi chính giữa các trại quân khác. Họ sẽ ra đi theo đúng thứ tự như họ đã cắm trại, mỗi người theo hàng ngũ dưới ngọn cờ mình. Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm tại phía tây, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút. Quân số của người được 40,500 người. Bộ tộc Ma-na-se sẽ cắm trại gần bên Ép-ra-im. Chỉ huy trưởng Ma-na-se là Ga-ma-liên, con Phê-đát-su. Quân số của người được 32,200 người. Tiếp theo là bộ tộc Bên-gia-min. Chỉ huy trưởng Bên-gia-min là A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni. Quân số người được 35,400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Ép-ra-im, chia từng đội ngũ, được 108,100 người. Họ sẽ đi thứ ba. Trại quân Đan sẽ cắm tại phía bắc, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Đan là A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai. Quân số của người được 62,700 người. Bộ tộc A-se sẽ cắm trại gần bên Đan. Chỉ huy trưởng A-se là Pha-ghi-ên, con Óc-ran. Quân số của người được 41,500 người. Tiếp theo là bộ tộc Nép-ta-li. Chỉ huy trưởng Nép-ta-li là A-hi-ra, con Ê-nan. Quân số của người được 53,400 người. Tất cả nhân số trong trại quân Đan, chia từng đội ngũ, được 157,600 người. Họ sẽ đi hậu tập. Đó là những người Y-sơ-ra-ên được kiểm kê theo từng bộ tộc. Tổng số quân sĩ trong các trại quân, chia từng đội ngũ, là 603,550. Tuy nhiên, người Lê-vi không được kiểm kê với những người Y-sơ-ra-ên khác, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Như thế, dân Y-sơ-ra-ên thực thi mọi điều CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Đó là cách mà họ bố trí các trại quân dưới ngọn cờ mình; đó cũng là cách xuất quân mỗi người theo gia tộc và bộ tộc mình. Người Lê-vi Đây là những người trong gia đình A-rôn và Môi-se trong thời gian CHÚA phán với Môi-se trên núi Si-nai. Tên các con trai A-rôn là: Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. Đó là tên các con trai A-rôn tức các thầy tế lễ được xức dầu và tấn phong để phục vụ trong chức thầy tế lễ. Tuy nhiên, Na-đáp và A-bi-hu đã ngã chết trước mặt CHÚA khi họ dâng hương lên CHÚA trong sa mạc Si-nai bằng một thứ lửa Ngài không cho phép. Họ không có con trai nên chỉ có Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong chức thấy tế lễ dưới sự hướng dẫn của A-rôn, cha họ. CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy đem bộ tộc Lê-vi đến, đặt họ dưới quyền thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người. Họ phải thi hành các nhiệm vụ thay cho A-rôn và toàn thể dân chúng tại Trại Hội Kiến bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Họ phải chăm sóc tất cả các vật dụng trong Trại Hội Kiến, thi hành các bổn phận của dân Y-sơ-ra-ên bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Trong vòng người Y-sơ-ra-ên họ là những người duy nhất được giao trọn cho A-rôn. Con hãy bổ nhiệm A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ; bất cứ người nào khác xâm phạm vào chức vụ này sẽ bị xử tử.” CHÚA lại bảo Môi-se: “Ta đã chọn người Lê-vi giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế cho các con trai đầu lòng của mỗi người đàn bà Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta, vì tất cả các con trai đầu lòng đều thuộc về Ta. Khi Ta đánh hạ tất cả các con trai đầu lòng tại Ai-cập, Ta đã biệt riêng cho Ta tất cả các con trai đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả người lẫn thú vật. Họ phải thuộc về Ta. Ta là CHÚA.” CHÚA bảo Môi-se tại sa mạc Si-nai: “Con hãy kiểm tra dân số người Lê-vi tùy theo gia tộc và gia đình. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ một tháng trở lên.” Như vậy, Môi-se kiểm kê họ đúng như lời CHÚA truyền bảo mình. Đây là tên các con trai Lê-vi: Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. Đây là tên con trai Ghẹt-sôn: Líp-ni và Si-mê-i. Con trai Kê-hát là: Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên. Con trai Mê-ra-ri là: Mách-li và Mu-si. Đó là những nhóm các gia tộc trong bộ tộc Lê-vi. Con cháu Líp-ni là Si-mê-i thuộc về Ghẹt-sôn; đó là gia tộc Ghẹt-sôn. Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 7,500 người. Gia tộc Ghẹt-sôn phải cắm trại phía tây đằng sau Đền Tạm. Người lãnh đạo gia tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con La-ên. Trách nhiệm của gia tộc Ghẹt-sôn tại Trại Hội Kiến gồm có: Đền Tạm, trại, mái phủ trại, bức màn tại cửa Trại Hội Kiến, các bức màn trong hành lang, bức màn tại cửa hành lang bao quanh Đền Tạm và bàn thờ, và các sợi dây thừng cùng tất cả các dịch vụ bảo quản những thứ đó. Gia tộc Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên thuộc về Kê-hát; đó là gia tộc Kê-hát. Tổng số người nam từ một tuổi trở lên được 8,600 người. Gia tộc Kê-hát chịu trách nhiệm chăm sóc Nơi Thánh. Gia tộc Kê-hát phải cắm trại phía nam Đền Tạm. Người lãnh đạo gia tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con U-xi-ên. Họ chịu trách nhiệm chăm sóc Rương Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và dịch vụ bảo quản những thứ đó, cùng tấm màn và các vật dụng phụ thuộc. Đứng đầu các vị lãnh đạo bộ tộc Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn; ông giám sát những người chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh. Gia tộc Mách-li và gia tộc Mu-si thuộc về Mê-ra-ri: đó là gia tộc Mê-ra-ri. Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 6,200 người. Người lãnh đạo gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-bi-hai: họ phải cắm trại phía bắc Đền Tạm. Người Mê-ra-ri được bổ nhiệm coi sóc các khung của Đền Tạm, các cây xà ngang, các cây cột, đế cột, cùng tất cả các vật dụng. Họ chịu tránh nhiệm bảo quản những thứ đó cùng coi sóc các cây cột và đế cột xung quanh hành lang, các cây cọc và dây thừng. Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại ở phía đông Đền Tạm, về phía mặt trời mọc ngay trước Trại Hội Kiến. Họ phải chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Kẻ nào khác xâm phạm đến gần Nơi Thánh sẽ bị xử tử. Tổng số người Lê-vi được kiểm kê theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se và A-rôn, chia theo từng gia tộc, tức là các người nam từ một tháng trở lên, được 22,000 người. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên từ một tháng trở lên, và lập bảng danh sách. Con hãy thu nhận cho Ta người Lê-vi thay cho tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, và các bầy gia súc của người Lê-vi thay cho tất cả các con đực đầu lòng của gia súc người Y-sơ-ra-ên. Ta là CHÚA.” Như thế, Môi-se kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã truyền bảo người. Tổng số con trai đầu lòng liệt kê từng tên, được 22,273 người. CHÚA lại phán bảo Môi-se: “Con hãy thu nhận người Lê-vi thay cho tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Lê-vi thay cho gia súc của người Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là CHÚA. Về phần 273 con trai đầu lòng Y-sơ-ra-ên là số trội hơn tổng số người Lê-vi, con hãy chuộc lại bằng cách thu mỗi người năm sê-ken bạc3:47 Nt: mỗi sê-ken nặng 20 ghê-ra, khoảng một lạng rưỡi bạc theo tiêu chuẩn cân đo trong Nơi Thánh. Hãy giao số bạc chuộc các người Y-sơ-ra-ên phụ trội đó cho A-rôn và các con trai người.” Như thế, Môi-se thu bạc chuộc của những người phụ trội đó. Môi-se thu được một ngàn ba trăm sáu mươi lăm sê-ken bạc3:50 Nt: 415 lượng và hai chỉ bảy bạc của các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Môi-se giao bạc chuộc đó cho A-rôn và các con trai người, đúng như lời CHÚA đã truyền bảo mình. Dòng Họ Kê-hát CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Con hãy kiểm tra dân số người Kê-hát, tức là một ngành trong tộc Lê-vi, theo từng gia tộc và gia đình. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ ba mươi đến năm mươi tuổi, trong lứa tuổi phục vụ để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Đây là công việc của người Kê-hát tại Trại Hội Kiến: chăm sóc các vật chí thánh. Khi nào trại quân dời đi, A-rôn và các con trai người phải vào gỡ bức màn ngăn che Nơi Thánh và phủ lên Rương Chứng Cớ; rồi phủ lên trên các tấm da cá heo, trải tấm vải mầu xanh lên trên cùng, rồi sửa đòn khiêng cho ngay ngắn. Họ sẽ trải lên bàn đựng bánh thánh tấm khăn xanh rồi đặt lên khăn các đĩa, bát, chén và các bình dùng dâng rượu; bánh thánh dâng liên tục vẫn để y trên bàn. Trên tất cả những vật ấy, họ phải trải một tấm khăn đỏ thắm, và trên cùng, phủ lên các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào. Họ phải lấy một tấm khăn xanh phủ lên giá đèn để thắp sáng và các cây đèn, kéo cắt tim đèn và khay, và tất cả các bình đựng dầu để thắp đèn; rồi bọc giá đèn và các đồ phụ tùng bằng tấm da cá heo và đặt lên một đòn khiêng. Họ cũng phải trải một tấm khăn xanh trên bàn thờ bằng vàng, và phủ lên bằng các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào. Tất cả các vật dụng trong việc phục vụ tại Nơi Thánh phải gói lại trong một tấm vải xanh và phủ lên bằng các tấm da cá heo. Họ phải hốt tro tại bàn thờ bằng đồng, trải lên bàn thờ một tấm vải mầu tím, và đặt tất cả các khí dụng tế lễ lên trên: các lư hương, xiên, xẻng, bát dùng vào việc rảy nước, tất cả các phụ tùng bàn thờ, rồi phủ lên các tấm da cá heo và xỏ đòn khiêng vào. Sau khi A-rôn và các con trai người đậy xong Nơi Thánh và tất cả các khí dụng thánh, và khi trại quân sẵn sàng dời đi, gia tộc Kê-hát phải đến khuân vác, nhưng họ không được chạm đến các vật thánh kẻo bị thiệt mạng. Gia tộc Kê-hát phải khuân vác các vật dụng trong Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, có nhiệm vụ lo về dầu thắp đèn, hương liệu, lễ vật chay hằng dâng và dầu xức; cũng phải coi sóc cả Đền Tạm và các vật dụng bên trong, kể cả các đồ bạc và vật dụng thánh.” CHÚA lại bảo Môi-se và A-rôn: “Đừng để gia tộc Kê-hát phải bị tiêu diệt. Đây là điều phải làm để giữ cho họ khỏi chết khi vào Nơi Thánh: A-rôn và các con ông sẽ vào nơi đó với họ, chỉ cho mỗi người vật gì họ phải khiêng. Tuyệt đối không ai được vào nơi đó để nhìn các vật thánh, dù chỉ trong giây lát; ai bất tuân đều phải chết.” CHÚA bảo Môi-se: “Cũng hãy kiểm tra các con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo gia tộc và gia đình họ. Từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi tuổi, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Đây là công việc của họ: họ sẽ khiêng các bức màn của Đền Tạm, Trại Hội Kiến, nóc lều, tấm da phủ nóc lều, tấm màn che cửa lều, các màn quanh hành lang, màn che cửa hành lang, hành lang bao quanh trại, và bàn thờ, dây thừng và các dụng cụ khác. Những người thuộc gia tộc Ghẹt-sôn có nhiệm vụ di chuyển các vật ấy. Hết thảy công việc của con cháu Ghẹt-sôn, món gì họ phải khiêng đi, và việc gì họ phải làm đều sẽ theo lệnh A-rôn và các con trai người chỉ biểu; người phải giao cho họ coi sóc mọi món gì phải khiêng đi. Trong hội mạc, ấy là công việc của các gia tộc con cháu Ghẹt-sôn. Họ sẽ giữ chức phận mình dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn. Ngươi phải kiểm tra con cháu Mê-ra-ri, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. Họ sẽ khiêng khung Trại, các thanh ngang, trụ và đế trụ, trụ hành lang, đế trụ, cọc lều, dây và các đồ phụ tùng. Khi phân công người nào khiêng vật gì phải lập danh sách rõ ràng. Trên đây là nhiệm vụ của gia tộc Mê-ra-ri tại Trại Hội Kiến dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.” Vậy, Môi-se, A-rôn và các nhà lãnh đạo dân chúng bắt đầu kiểm tra gia tộc Kê-hát, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, để đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến; có được 2,750 người. Đó là tổng số người Kê-hát phục vụ tại Trại Hội Kiến do Môi-se và A-rôn kiểm tra theo lời CHÚA truyền cho Môi-se. Còn con cháu Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến, cộng được 2,630 người. Đó là những người về gia tộc Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tức là những người hầu việc trong Trại mà Môi-se và A-rôn tu bộ y theo mạng của CHÚA. Còn những người thuộc về gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người có khả năng phục vụ trong Trại, tổng cộng được 3,200 người. Đó là những người về các gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra. Môi-se và A-rôn kiểm tra dân, y theo lệnh của CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy. Hết thảy những người Lê-vi mà Môi-se, A-rôn và các quan trưởng Y-sơ-ra-ên kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người đến phục vụ và khuân vác đồ trong Trại, cộng được 8,580 người. Người ta kiểm tra người Lê-vi theo lệnh CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy, cắt đặt cho mỗi người việc mình phải làm, và vật chi mình phải khiêng đi; người ta kiểm tra dân theo lời CHÚA đã phán dạy Môi-se vậy. Luật Về Người Ô Uế CHÚA cũng bảo Môi-se: “Con dạy người Y-sơ-ra-ên phải trục xuất các người phung, người có chất lỏng xuất ra từ thân thể và người bị ô uế vì đụng vào xác người chết ra khỏi trại quân. Dù họ là đàn ông hay đàn bà cũng phải trục xuất để họ không làm ô uế trại quân, vì Ta ở giữa trại dân Ta.” Người Y-sơ-ra-ên vâng lời CHÚA. Luật Bồi Thường CHÚA lại bảo Môi-se dạy bảo người Y-sơ-ra-ên: “Khi một người, dù đàn ông hay đàn bà phạm một tội gì với một người khác, và do đó phạm tội bất trung với CHÚA, người ấy phải nhận tội mình, phải xưng tội ra, bồi thường thiệt hại do mình gây ra, cộng thêm một phần năm số ấy cho nạn nhân. Trường hợp nạn nhân không còn ai để nhận bồi thường, số bồi thường phải nộp cho CHÚA và số ấy thuộc về thầy tế lễ, cộng thêm một con chiên để làm tế lễ chuộc tội. Phàm lễ vật chi biệt riêng ra thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho thầy tế lễ, đều sẽ thuộc về người. Những vật biệt riêng ra thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về người; vật chi mỗi người ban cho thầy tế lễ, chắc sẽ thuộc về người vậy.” Luật Về Ghen Tương CHÚA lại bảo Môi-se: “Hãy phán dạy dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người đàn bà ngoại tình nhưng nàng giấu kín, không bị bắt quả tang, cũng không có nhân chứng, và nếu người chồng đâm nghi, nổi ghen khi vợ mình đã thất tiết hoặc nổi ghen trong khi vợ mình không thất tiết, người ấy nên đưa vợ mình đến gặp thầy tế lễ, cũng đem theo một lễ vật gồm một phần mười ê-pha bột lúa mạch không pha dầu, không rắc nhũ hương lên trên, vì đây là lễ vật ghen tương. Thầy tế lễ sẽ đem người vợ đến trước CHÚA, đổ nước thánh vào một cái bình bằng đất, bốc bụi dưới sàn Đền Tạm bỏ vào. Thầy tế lễ cũng xả tóc nàng, đặt lễ vật ghen tương vào tay nàng, tay thầy tế lễ cầm bình nước đắng nguyền rủa. Thầy tế lễ bảo nàng thề rồi nói: ‘Nếu không có ai nằm với bà ngoài chồng bà, thì nước đắng nguyền rủa này sẽ không làm hại bà được. Nhưng nếu bà đã ngoại tình, cầu CHÚA khiến cho nàng trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên; nước đắng rủa sả này khá chui vào ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông.’ Nàng sẽ nói: ‘Xin cứ đúng như thế!’5:22 Nt: Amen! Amen! Thầy tế lễ viết những lời nguyền rủa này vào sách, rồi rửa sách trong nước đắng. Khi nàng uống nước đắng nguyền rủa, nó sẽ gây nhiều cay đắng trong bụng.5:24 Nếu thật ngoại tình, xem câu 27-28 Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật ghen tương khỏi tay nàng, đem dâng đưa qua đưa lại trước CHÚA, rồi đem lễ vật đến trước bàn thờ; bốc một nắm bột tượng trưng cho toàn thể lễ vật, đem đốt trên bàn thờ, rồi bảo nàng uống nước. Nếu nàng ngoại tình; nước sẽ trở nên đắng trong bụng, bụng phình lên, đùi sụm xuống, dân chúng sẽ nhắc đến nàng mỗi khi trù ẻo, thề thốt. Nhưng nếu trong sạch nàng sẽ không bị hại mà vẫn có thể sinh nở.5:28 Nt: và sẽ mang thai Đó là luật lệ về sự ghen tương khi một người đàn bà, ở dưới quyền chồng mình, lỗi đạo và bị ô uế, hoặc khi nào tánh ghen phát sanh nơi người chồng mà ghen vợ mình: người phải đem vợ đến trước mặt CHÚA và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng hết thảy điều gì luật lệ này đã truyền dạy. Người chồng sẽ không có lỗi mặc dù hậu quả tai hại xảy ra cho vợ mình trong trường hợp vợ ngoại tình thật.” Luật Lệ Về Người Na-xi-rê CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu một người nam hay nữ muốn hứa nguyện biệt mình riêng cho Chúa, làm người Na-xi-rê, thì phải kiêng cử rượu và thức uống làm cho say, cũng không được uống giấm làm bằng rượu hoặc bằng một chất lên men. Cả đến nước ép nho cũng không được uống và không được phép ăn nho tươi hay khô. Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa làm người Na-xi-rê, người ấy không được ăn uống bất cứ món nào từ cây nho, kể cả hạt nho và vỏ trái nho. Suốt thời gian thề nguyện biệt mình làm người Na-xi-rê, người không được cạo đầu. Trọn những ngày người biệt mình riêng cho CHÚA, làm người Na-xi-rê, tóc người cũng được biệt riêng ra thánh và người phải để cho tóc mình mọc dài, không được cắt tỉa. Suốt thời gian biệt mình riêng cho CHÚA, không được đến gần xác chết. Đừng vì cha hay mẹ, vì anh em hoặc chị em qua đời mà bị ô uế vì dấu hiệu biệt riêng cho Chúa vẫn ở trên đầu mình. Suốt thời gian biệt riêng đó, người ấy được thánh hóa cho CHÚA. Nếu ai chết thình lình bên người Na-xi-rê làm cho đầu đã biệt ra thánh của người ấy trở nên ô uế, thì phải cạo đầu mình vào ngày được sạch, tức là ngày thứ bảy. Qua ngày thứ tám, người ấy phải đem hai chim gáy hoặc hai bồ câu con đến cho thầy tế lễ tại cửa Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu để chuộc tội người đã mắc vì xác chết. Ngày ấy, người sẽ biệt đầu mình ra thánh. Người ấy sẽ biệt mình ra thánh cho CHÚA suốt những ngày còn lại trong thời gian làm người Na-xi-rê, cũng phải đem một con chiên con đực một tuổi làm tế lễ chuộc sự mắc lỗi. Những ngày làm người Na-xi-rê đã qua không được kể nữa vì đã bị ô uế. Đây là luật lệ về người Na-xi-rê khi mãn hạn biệt riêng mình cho Chúa: Người ấy phải được đem đến cửa Trại Hội Kiến. Người ấy sẽ dâng các tế lễ lên CHÚA: một con chiên con đực một tuổi không tì vết làm tế lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết làm tế lễ chuộc tội và một con chiên đực không tì vết làm tế lễ cầu an; một giỏ bánh không men bằng bột lọc, các bánh nhỏ rưới dầu, các bánh tráng không men thoa dầu, luôn với lễ vật chay và lễ tưới rượu. Thầy tế lễ sẽ đem các lễ vật ấy đến trước mặt CHÚA và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu; dâng luôn con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng dâng tế lễ chay và lễ tưới rượu của người ấy, trừ ra giỏ bánh không men. Tại cửa Trại Hội Kiến, người Na-xi-rê phải cạo tóc trên đầu mình đã biệt riêng và lấy tóc bỏ vào ngọn lửa đang cháy dưới tế lễ cầu an. Sau khi cạo đầu, người Na-xi-rê sẽ được thầy tế lễ đặt trong lòng hai bàn tay cái vai đã luộc chín của con chiên đực, một cái bánh nhỏ không men lấy trong giỏ và một cái bánh tráng không men, rồi dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA: đó là những vật thánh thuộc về thầy tế lễ cũng như cái ngực đã được đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên. Sau đó người Na-xi-rê được uống rượu. Đó là luật lệ về người Na-xi-rê. Ngoài những lễ vật cần thiết kèm theo lời hứa nguyện làm người Na-xi-rê; nếu người có hứa nguyện dâng lên CHÚA những lễ vật nào tùy theo khả năng mình, người phải giữ đúng theo lời mình hứa nguyện.” Lời Chúc Phước Của Thầy Tế Lễ CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo A-rôn và các con trai người: Đây là cách chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên: Cầu xin CHÚA ban phước cho ngươi Và bảo vệ ngươi! Cầu xin CHÚA làm cho mặt Ngài chiếu sáng ngươi Và làm ơn cho ngươi! Cầu xin CHÚA đoái xem ngươi Và ban bình an cho ngươi! Như thế, họ sẽ đặt danh Ta trên dân Y-sơ-ra-ên, thì Ta sẽ ban phước cho dân đó.” Các Lễ Vật Dùng Vào Dịp Khánh Thành Đền Tạm Dựng xong Đền Tạm, Môi-se xức dầu và biệt riêng ra thánh cả Đền Tạm lẫn tất cả đồ đạc trong ấy. Ông cũng xức dầu và biệt ra thánh bàn thờ và tất cả vật dụng của bàn thờ. Khi ấy các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các gia trưởng làm trưởng bộ tộc đã đặc trách việc kiểm tra dân số, đều dâng lễ vật. Họ đem lễ vật của mình đến trước mặt CHÚA chở trong sáu cỗ xe do mười hai bò đực kéo, mỗi trưởng bộ tộc một con bò và hai trưởng bộ tộc một cỗ xe. Họ dâng các lễ vật đó trước Đền Tạm. CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy thu các lễ vật của những người này để dùng vào công việc của Trại Hội Kiến. Con hãy giao các lễ vật ấy cho người Lê-vi tùy theo công tác của mỗi người.” Vậy, Môi-se thu nhận các cỗ xe và bò đực rồi giao lại cho người Lê-vi: hai cỗ xe và bốn con bò cho gia tộc Ghẹt-sôn tùy theo công tác của họ, bốn cỗ xe và tám con bò cho gia tộc Mê-ra-ri tùy theo công tác của họ. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của Y-tha-ma con trai thầy tế lễ A-rôn. Nhưng Môi-se không giao xe và bò cho gia tộc Kê-hát vì các vật dụng thánh họ chịu trách nhiệm phải được khuân vác trên vai. Khi bàn thờ được xức dầu, các nhà lãnh đạo đem lễ vật dâng lên trước bàn thờ để khánh thành. CHÚA đã phán dạy Môi-se: “Các nhà lãnh đạo phải mang đến lễ vật để khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một người.” Ngày thứ nhất, Na-ha-sôn con của A-mi-na-đáp, bộ tộc Giu-đa, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken7:13 1.5 kg và một cái bát nặng bảy mươi sê-ken,7:13 0.8kg theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh: cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay; một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken7:14 110g đựng đầy hương liệu: một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu: một con dê đực làm tế lễ chuộc tội: hai con bò đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp. Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên con của Xu-a, bộ tộc Y-sa-ca, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một cái bát nặng bảy mươi sê-ken theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh: cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu; một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-tha-na-ên, con của Xu-a. Ngày thứ ba, Ê-li-áp con của Hê-long, bộ tộc Sa-bu-luân, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-áp, con của Hê-long. Vào ngày thứ tư, Ê-li-sua con của Sê-đêu, bộ tộc Ru-bên, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi để làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sua, con của Sê-đêu. Ngày thứ năm, Sê-lu-miên con của Xu-ri-ha-đai, bộ tộc Si-mê-ôn, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Sê-lu-miên, con của Xu-ri-ha-đai. Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con của Đê-u-ên, bộ tộc Gát, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp, con của Đê-u-ên. Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con của A-mi-hút, bộ tộc Ép-ra-im dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma, con của A-mi-hút. Ngày thứ tám, Ga-ma-liên con của Phê-đát-su, bộ tộc Ma-na-se, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ga-ma-liên, con của Phê-đát-su. Ngày thứ chín, A-bi-đan con của Ghi-đeo-ni, bộ tộc Bên-gia-min, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-bi-đan, con của Ghi-đeo-ni. Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con của Am-mi-sa-đai, bộ tộc Đan, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ê-xe, con của Am-mi-sa-đai. Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên con của Óc-ran, bộ tộc A-se, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Pha-ghi-ên, con của Óc-ran. Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con của Ê-nan, bộ tộc Nép-ta-li, dâng lễ vật. Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ra, con của Ê-nan. Đó là các lễ vật của các trưởng bộ tộc dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến trong lễ khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng; mỗi đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và mỗi bát nặng bảy mươi sê-ken. Tổng cộng đĩa và bát được hai ngàn bốn trăm sê-ken7:85 28kg bạc bạc, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; mười hai chén vàng đựng đầy hương liệu, mỗi cái cân nặng mười sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; tổng cộng được một trăm hai mươi sê-ken7:86 1.4kg vàng. Số bò đực dâng làm tế lễ thiêu được mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con đực một tuổi, cùng các lễ vật chay cặp theo. Ngoài ra, mười hai con dê đực được dâng làm tế lễ chuộc tội. Tổng số sinh tế dâng làm tế lễ cầu an được hai mươi bốn con bò đực, sáu mươi con cừu đực, sáu mươi con dê đực và sáu mươi con chiên con đực một tuổi. Đó là các lễ vật dâng lên để khánh thành bàn thờ sau khi bàn thờ được xức dầu. Khi vào Trại Hội Kiến để thưa chuyện với CHÚA, Môi-se được nghe tiếng phán với mình phát ra giữa hai chê-ru-bim trên Nắp Chuộc Tội đặt trên Rương Giao Ước. Và như thế, CHÚA trò chuyện với Môi-se. Luật Lệ Về Cách Thắp Đèn Trong Đền Tạm CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo A-rôn: Khi nào anh sắp đặt các cây đèn, phải để bảy cây đèn chiếu soi phía trước chân đèn. A-rôn vâng theo, đặt bảy cây đèn lên phía trước chân đèn y như CHÚA đã phán dạy Môi-se. Chân đèn đã được chế tạo bằng vàng dát mỏng, cả đến chân và các hoa cũng đều đánh dát. Như thế, người ta làm chân đèn đúng theo kiểu CHÚA đã chỉ cho Môi-se xem. Biệt Riêng Người Lê-vi Cho Chúa CHÚA phán bảo Môi-se: Con hãy phân rẽ người Lê-vi với toàn dân Y-sơ-ra-ên và thanh tẩy họ. Đây là cách thanh tẩy họ: Con hãy rảy nước tẩy trên họ rồi cho họ cạo khắp người, giặt quần áo và dọn mình thanh sạch. Họ phải đem theo một con bò đực với lễ vật chay bằng bột lọc nhồi dầu. Còn con cũng phải bắt một con bò đực tơ để dâng tế lễ chuộc tội. Con hãy bảo người Lê-vi đến gần trước Trại Hội Kiến và tụ họp toàn dân Y-sơ-ra-ên. Con phải bảo người Lê-vi đến gần trước mặt CHÚA rồi cho dân Y-sơ-ra-ên đặt tay trên người Lê-vi. A-rôn phải dâng người Lê-vi lên trước mặt CHÚA như một tế lễ đưa qua đưa lại từ dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu người Lê-vi sẵn sàng phục vụ CHÚA. Người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực. Con hãy dâng con bò này làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu cho CHÚA để chuộc tội cho người Lê-vi. Con hãy bảo người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một tế lễ đưa qua đưa lại cho CHÚA. Như thế, con sẽ biệt riêng người Lê-vi ra khỏi Y-sơ-ra-ên, thì người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Sau khi con thanh tẩy họ và dâng họ lên như tế lễ đưa qua đưa lại, người Lê-vi sẽ đến làm công việc tại Trại Hội Kiến. Người Lê-vi phải dâng mình trọn vẹn cho Ta từ giữa dân Y-sơ-ra-ên. Ta đã chọn họ để họ thuộc về Ta thay thế cho các con trai đầu lòng cả người lẫn gia súc trong dân Y-sơ-ra-ên. Tất cả các trưởng nam trong Y-sơ-ra-ên và các con đực đầu lòng trong bầy gia súc đều thuộc về Ta. Ta đã biệt riêng chúng cho Ta khi Ta đánh hạ tất cả các con trai đầu lòng tại Ai-cập. Và Ta đã chọn người Lê-vi thay thế tất cả con trai đầu lòng Y-sơ-ra-ên. Trong toàn dân Y-sơ-ra-ên, Ta đã ban người Lê-vi như một tặng phẩm cho A-rôn và các con trai người để làm công việc tại Trại Hội Kiến thay cho dân Y-sơ-ra-ên, cùng chuộc tội cho toàn dân ngõ hầu dân Y-sơ-ra-ên không bị tai họa gì khi họ đến gần Nơi Thánh.” Môi-se, A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên làm cho người Lê-vi đúng theo mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se. Người Lê-vi dọn mình thanh sạch và giặt quần áo mình, rồi A-rôn dâng họ như tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA và làm tế lễ chuộc tội để thanh tẩy họ. Sau đó, người Lê-vi đến làm công việc trong Trại Hội Kiến trước mặt A-rôn và các con trai người, theo sự phân công. Người ta làm cho người Lê-vi mọi điều CHÚA đã phán dặn Môi-se. CHÚA phán bảo Môi-se: “Đây là luật lệ áp dụng cho người Lê-vi: Mỗi người nam từ hai mươi lăm tuổi trở lên phải đến dự phần phục vụ tại Trại Hội Kiến. Đến tuổi năm mươi họ phải về hưu, không phải làm việc nữa. Đến tuổi đó, họ có thể phụ giúp anh em mình trong các dịch vụ tại Trại Hội Kiến, nhưng chính họ không được làm việc. Con phải áp dụng luật lệ này khi phân công cho người Lê-vi.” Lễ Vượt Qua Thứ Nhì CHÚA phán bảo Môi-se trong sa mạc Si-nai vào tháng giêng năm thứ nhì sau khi rời khỏi Ai-cập: “Con phải cho dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua vào thời gian ấn định. Con hãy giữ lễ ấy đúng thời gian ấn định, vào lúc chạng vạng tối ngày mười bốn tháng này đúng theo mọi quy luật và sắc lệnh.” Vậy Môi-se bảo dân Y-sơ-ra-ên cử hành lễ Vượt Qua: họ giữ lễ ấy trong sa mạc lúc chạng vạng tối ngày mười bốn tháng giêng đúng theo mọi điều CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se nhưng hôm ấy, có mấy người bị ô uế vì đến gần xác chết nên không giữ lễ Vượt Qua được. Vậy họ đến cùng Môi-se và A-rôn ngay hôm ấy và thưa với Môi-se: “Chúng tôi bị ô uế vì xác chết của loài người. Vì sao giữa dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi phải mất phần dâng tế lễ cho CHÚA theo thời gian ấn định?” Môi-se đáp: “Anh em hãy đợi tôi đến tìm biết điều CHÚA truyền dạy về anh em.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi một người trong vòng các ngươi hoặc trong dòng dõi các ngươi bị ô uế vì xác chết hoặc bận đi xa, thì cũng buộc phải giữ lễ cho CHÚA. Những người ấy phải giữ lễ này ngày mười bốn tháng hai lúc chạng vạng tối, ăn bánh không men với rau đắng. Đừng để vật gì còn lại đến sáng mai, cũng không nên bẻ gãy các xương. Phải giữ đúng mọi luật lệ về lễ Vượt Qua. Nhưng những ai tinh sạch và không đi xa mà chẳng giữ lễ Vượt Qua thì sẽ bị khai trừ ra khỏi dân chúng, vì chẳng dâng tế lễ cho CHÚA trong kỳ ấn định; người ấy sẽ mang tội mình. Khi một người nước ngoài kiều ngụ giữa các ngươi muốn cử hành lễ Vượt Qua, thì phải giữ đúng các quy luật và sắc lệnh. Các ngươi phải áp dụng quy luật cho người nước ngoài cũng như cho người bản xứ.” Trụ Mây Và Đền Tạm Trong ngày Đền Tạm, trại Chứng Cớ được dựng lên, có đám mây bao phủ nó. Từ tối đến sáng, đám mây bên trên Đền Tạm giống như đám lửa. Lúc nào cũng vậy, ban ngày đám mây bao phủ Đền Tạm, còn ban đêm giống như đám lửa. Một khi trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm, dân Y-sơ-ra-ên ra đi; một khi trụ mây dừng lại, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại. Theo lệnh của CHÚA, dân Y-sơ-ra-ên cắm trại; cũng theo lệnh của Ngài, họ ra đi. Bao lâu trụ mây ở trên Đền Tạm thì dân Y-sơ-ra-ên cứ ở trong trại mình. Khi trụ mây cứ ở trên Đền Tạm một thời gian dài, dân Y-sơ-ra-ên cũng vâng lệnh CHÚA và không ra đi. Đôi khi trụ mây dừng trên Đền Tạm chỉ một vài ngày; theo lệnh của CHÚA, dân chúng cắm trại. Và sau đó, theo lệnh của Ngài, họ lại ra đi. Đôi khi trụ mây chỉ dừng lại từ tối đến sáng; khi trụ mây cất lên buổi sáng, họ ra đi. Bất luận ban ngày hay ban đêm, mỗi khi trụ mây cất lên, dân chúng ra đi. Khi trụ mây dừng trên Đền Tạm hai ngày hoặc một tháng hay một năm, dân Y-sơ-ra-ên cứ ở lại trong trại mà không ra đi nhưng khi trụ mây cất lên họ ra đi. Theo lệnh của CHÚA, họ cắm trại: cũng theo lệnh Ngài, họ ra đi. Họ tuân lệnh CHÚA, đúng theo mệnh lệnh Chúa truyền qua Môi-se. Hai Loa Bằng Bạc CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy làm hai cái kèn bằng bạc dát mỏng, dùng để tập họp dân chúng và để truyền lệnh nhổ trại ra đi. Khi thổi cả hai kèn, toàn dân sẽ tập họp trước mặt con tại cửa Trại Hội Kiến. Nếu có một kèn thổi lên thì các nhà lãnh đạo tức các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên sẽ họp trước mặt con. Khi có tiếng kèn thổi vang thì các trại quân phía đông phải ra đi. Khi nghe thổi tiếng vang lần thứ nhì thì các trại quân phía nam phải ra đi; khi nào muốn các trại quân ra đi thì phải thổi kèn vang lớn. Khi triệu tập dân chúng cũng thổi kèn nhưng đừng thổi vang lớn. Các con trai A-rôn, tức các thầy tế lễ, sẽ thổi các kèn ấy. Đó là một lệ định đời đời cho các ngươi từ đời này qua đời kia. Khi các ngươi xuất quân ra trận từ quê hương đất nước chống trả địch quân đang áp bức mình thì phải thổi kèn vang lớn. Khi ấy, CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ nhớ lại ngươi và giải cứu ngươi khỏi quân thù nghịch. Khi con gặp lúc hân hoan như các lễ định kỳ, lễ trăng mới thì phải thổi kèn khi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Kèn sẽ được dùng làm kỷ niệm trước mặt Đức Chúa Trời. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Thời Kỳ Kiều Ngụ Trong Sa Mạc Ngày hai mươi mốt tháng hai năm thứ nhì, trụ mây cất lên khỏi Đền Tạm Chứng Cớ. Dân Y-sơ-ra-ên nhổ trại, khởi đầu cuộc hành trình từ sa mạc Si-nai và trụ mây dừng lại trong sa mạc Pha-ran. Đây là lần đầu họ ra đi theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se. Ngọn cờ của trại quân Giu-đa đi trước, kéo đi từng đơn vị. Na-ha-sôn, con A-mi-na-đáp, chỉ huy đoàn quân Giu-đa. Na-tha-na-ên, con Xu-a, chỉ huy các đơn vị đoàn quân Y-sa-ca. Ê-li-áp, con Hê-long, chỉ huy các đơn vị đoàn quân Sa-bu-luân. Lúc ấy Đền Tạm được dỡ xuống, gia tộc Ghẹt-sôn và gia tộc Mê-ra-ri khuân vác Đền Tạm ra đi. Kế đến là các đơn vị của đoàn quân của Ru-bên ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-lít-su, con Sê-đêu, chỉ huy đoàn quân Ru-bên. Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai, chỉ huy các đơn vị đoàn quân Si-mê-ôn. Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên, chỉ huy các đơn vị của đoàn quân Gát. Lúc ấy người Kê-hát ra đi, khuân vác các vật thánh. Đền Tạm phải được dựng lên xong xuôi trước khi họ đến nơi. Kế đó, các đơn vị của đoàn quân Ép-ra-im ra đi dưới ngọn cờ mình. Ê-li-ma-sa, con A-mi-hút, chỉ huy đoàn quân Ép-ra-im. Ga-ma-liên, con Phê-đát-su, chỉ huy các đơn vị của đoàn quân Ma-na-se. A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni, chỉ huy các đơn vị của đoàn quân Bên-gia-min. Sau hết, đi hậu tập là các đơn vị của đoàn quân Đan: họ ra đi dưới ngọn cờ mình. A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai, chỉ huy đoàn quân Đan. Pha-ghi-ên, con Óc-ran, chỉ huy các đơn vị của đoàn quân A-se. A-hi-ra, con Ê-nan, chỉ huy các đơn vị quân đội Nép-ta-li. Đây là thứ tự di chuyển cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra đi theo đoàn quân của mình. Môi-se bảo Hô-báp, con Rê-u-ên người Ma-đi-an, tức anh vợ mình: “Chúng tôi đang đi đến xứ mà CHÚA đã phán hứa: Ta sẽ ban xứ ấy cho các ngươi. Anh hãy đi với chúng tôi thì chúng tôi sẽ biệt đãi anh vì CHÚA đã hứa những điều tốt lành cho dân Y-sơ-ra-ên.” Người ấy đáp: “Không, tôi không đi đâu. Tôi sẽ về quê hương đất nước tôi với dân tộc tôi.” Nhưng Môi-se yêu cầu: “Xin anh đừng lìa bỏ chúng tôi. Anh biết nơi nào chúng tôi phải cắm trại giữa sa mạc nên anh là con mắt của chúng tôi. Chúng tôi sẽ chia với anh những điều tốt lành CHÚA ban cho chúng tôi.” Vậy, họ từ núi của CHÚA ra đi suốt ba ngày. Rương Giao Ước của CHÚA đi trước họ trong ba ngày đó để tìm cho họ một nơi an nghỉ. Khi họ dời trại ra đi, trụ mây của CHÚA ở trên họ ban ngày. Mỗi khi Rương Giao Ước ra đi, Môi-se nói: “Lạy CHÚA, xin hãy chỗi dậy! Nguyện quân thù Chúa bị đánh tan; Nguyện bọn cừu địch chạy trốn trước mặt Ngài.” Mỗi khi Rương Giao Ước dừng lại, Môi-se lại cầu nguyện: “Lạy CHÚA, xin Ngài hãy trở lại, Cùng muôn ngàn dân Y-sơ-ra-ên!” Lửa Đoán Phạt Của CHÚA Bấy giờ, dân sự phàn nàn về những cảnh gian khổ khó khăn. CHÚA nghe liền nổi thạnh nộ; CHÚA cho ngọn lửa cháy lên giữa vòng dân sự thiêu đốt nơi đầu cùng trại quân. Dân sự kêu cứu Môi-se; Môi-se cầu nguyện cùng CHÚA thì lửa ngưng cháy. Địa điểm này được gọi là Tha-bê-ra vì ngọn lửa của CHÚA đã thiêu đốt giữa dân sự. Ma-na Lúc ấy, bọn tạp dân giữa vòng dân sự nổi lòng tham muốn khiến dân Y-sơ-ra-ên lại khóc nữa và nói: “Ước gì chúng ta được ăn thịt! Chúng ta nhớ những con cá ăn miễn phí tại Ai-cập, những trái dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành và tỏi: nhưng bây giờ sức mạnh của chúng ta bị khô héo, vì chẳng có chi hết, chỉ thấy ma-na mà thôi!” Ma-na có hình thể như hạt ngò, màu sắc như nhựa thơm của một loài cây. Dân sự đi tản ra lượm lấy đem về xay trong cối xay hoặc giã bằng cối giã, nấu trong nồi và làm bánh có vị giống như bánh pha dầu. Khi sương mù bao phủ trại quân ban đêm thì ma-na cũng rơi xuống. Môi-se nghe tiếng dân sự khóc than trong gia đình của họ, mỗi người tại cửa trại mình. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng lên, còn Môi-se thì khổ sở. Môi-se thưa với CHÚA: “Tại sao Chúa bạc đãi đầy tớ Chúa như thế? Tại sao con không được ơn dưới mắt Chúa, đến nỗi Chúa đặt gánh nặng của cả dân tộc này trên con? Con có thụ thai dân tộc này đâu? Con đâu có nuôi dưỡng họ mà Chúa lại bảo con: con hãy cưu mang dân tộc này trong lòng như người vú ẵm bồng đứa trẻ đang bú, cho đến khi vào xứ Chúa đã thề hứa ban cho tổ phụ họ. Con tìm đâu ra thịt cho cả dân tộc này? Vì họ khóc trước mặt con mà đòi hỏi: xin cho chúng tôi ăn thịt. Một mình con không đủ khả năng gánh cả dân tộc này, vì gánh nặng quá sức con chịu. Nếu Chúa đãi con như thế thà cho con chết ngay bây giờ đi, nếu con được ơn dưới mắt Chúa, chứ đừng để con thấy sự tàn hại.” CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy tập họp cho Ta bảy mươi trưởng lão Y-sơ-ra-ên mà con biết là những người lãnh đạo và quan chức trong dân sự. Hãy dẫn họ đến Trại Hội Kiến, cho họ đứng tại đó với con. Ta sẽ ngự xuống, trò chuyện với con tại đó. Ta sẽ lấy Thần Ta ở trong con và đặt Thần Ta trong họ, để họ chia gánh nặng về dân tộc này với con và con không phải gánh một mình.” “Con hãy truyền bảo dân chúng: Ngày mai, các ngươi phải dọn mình thánh sạch thì các người sẽ được ăn thịt. Vì tai CHÚA có nghe các ngươi khóc than rằng: Ai sẽ cho chúng ta ăn thịt? Vì chúng ta đã sống sung túc tại Ai-cập. Vậy nên CHÚA sẽ ban cho các ngươi thịt để ăn. Các ngươi sẽ được ăn không phải chỉ một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày hay hai mươi ngày đâu, nhưng được ăn cả một tháng, cho đến khi nào thịt tràn ra lỗ mũi và các ngươi chán ngán vì các ngươi đã lìa bỏ CHÚA đang ngự giữa các ngươi và khóc than trước mặt Ngài rằng: Tại sao chúng ta lại rời bỏ Ai-cập?” Nhưng Môi-se thưa: “Đoàn dân bao quanh con đây có ít nhất là sáu trăm ngàn người đàn ông, mà Chúa lại bảo: Ta sẽ cho chúng ăn thịt suốt một tháng! Dù giết cả đàn bò và cừu thì cũng không đủ cho họ ăn? Dù bắt hết cá dưới biển thì cũng không đủ.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Quyền năng Ta có bị giới hạn không?11:23 Nt: Tay Ta có ngắn không? Con sẽ thấy lời Ta có được ứng nghiệm hay không.” Vậy Môi-se đi ra bảo dân chúng những lời CHÚA đã phán. Ông tập họp bảy mươi trưởng lão của dân chúng và đặt họ xung quanh trại. CHÚA ngự xuống trong đám mây và phán dạy Môi-se. Ngài lấy một phần Thần Ngài đang ngự trong ông và đặt trong bảy mươi trưởng lão. Khi Thần Chúa ngự trên họ, các trưởng lão liền nói tiên tri, nhưng không cứ nói mãi. Có hai người, một người tên Ên-đát, người kia tên Mê-đát, có tên trong danh sách bảy mươi trưởng lão nhưng ở lại trong trại quân, không ra đến Trại Hội Kiến. Tuy vậy Thần Chúa ngự trên họ và họ nói tiên tri trong trại quân. Một thanh niên chạy đi báo cáo cho Môi-se: “Ên-đát và Mê-đát đang nói tiên tri trong trại quân.” Giô-suê con trai Nun, phụ tá của Môi-se, và là một trong các người Môi-se đã chọn, yêu cầu: “Thưa Chủ tướng Môi-se, xin ngăn cấm họ.” Nhưng Môi-se đáp: “Liệu con ganh tị thế cho ta sao? Ước gì tất cả dân Chúa đều là tiên tri! Và ước gì CHÚA đặt Thần Ngài trong họ!” Môi-se và trưởng lão Y-sơ-ra-ên quay về trại quân. CHÚA cho một ngọn gió thổi từ biển cả, mang chim cút đến, rải ra tràn khắp chung quanh trại quân, trên một khoảng cách độ chừng một ngày đi bộ, và một lớp khoảng một thước. Dân sự đứng dậy lượm chim cút suốt ngày và đêm hôm đó cùng trọn ngày hôm sau, mỗi người đều lượm thịt, người ít nhất cũng lượm được cả mười ô-me.11:32 Khoảng 1,000l Người ta căng chim cút ra phơi khắp chung quanh trại quân. Nhưng khi ăn, thịt chim mới vào đến răng, chưa kịp nhai thì CHÚA nổi thịnh nộ hình phạt dân sự bằng một tai ách rất nặng. Địa điểm này được gọi là Kíp-rốt Ha-tha-va,11:34 Nghĩa là mồ chôn dục vọng vì là nơi chôn xác của những người tham ăn.11:34 Ctd: tham dục Từ Kíp-rốt Ha-tha-va dân Y-sơ-ra-ên đi qua Hát-sê-rốt và dừng chân tại đây. Mi-ri-am Mắc Bịnh Phung Mi-ri-am và A-rôn nói hành Môi-se vì người vợ quê ở xứ Cút mà Môi-se đã cưới, vì Môi-se đã cưới bà này làm vợ. Hai người nói: “Không lẽ CHÚA chỉ phán dạy qua một mình Môi-se mà thôi sao? Ngài không dùng chúng ta mà phán dạy sao?” CHÚA nghe lời đó. Môi-se là một người rất khiêm tốn, khiêm tốn nhất trần gian. Lập tức CHÚA bảo Môi-se, A-rôn và Mi-ri-am: “Cả ba hãy ra Trại Hội Kiến.” Ba người đều đi. CHÚA ngự xuống trong trụ mây và đứng tại cửa Trại Hội Kiến, rồi gọi A-rôn và Mi-ri-am đến. Hai người đều bước tới. CHÚA phán: “Hãy lắng nghe lời Ta: Khi một nhà tiên tri xuất hiện giữa các ngươi, Ta bày tỏ chính mình Ta cho người ấy trong khải tượng. Ta phán dạy người trong giấc mộng. Nhưng trường hợp Môi-se đầy tớ Ta không giống như vậy, người thật trung tín trong cả nhà Ta. Ta trò chuyện với người đối mặt Cách rõ ràng, không dùng lời bí ẩn, Và người thấy hình dạng CHÚA. Vậy, sao các ngươi không sợ nói hành đầy tớ Ta là Môi-se?” Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi phừng với A-rôn và Mi-ri-am và Ngài bỏ họ ngự đi. Khi trụ mây cất lên khỏi trại thì Mi-ri-am bị phung trắng như tuyết. A-rôn quay lại nhìn Mi-ri-am, thấy bà đã mắc bệnh phung. A-rôn nói với Môi-se: “Chủ tôi ơi, xin đừng chấp lỗi chúng tôi đã phạm cách điên dại, xin đừng để chị như đứa bé chết vừa ra khỏi lòng mẹ vì một nửa da thịt đã bị thiêu hủy.” Môi-se kêu cầu CHÚA: “Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chữa lành cho chị!” CHÚA đáp lời Môi-se: “Nếu bị cha mình nhổ trên mặt thì nó không bị hổ thẹn bảy ngày sao? Hãy cầm giữ nàng ngoài trại quân bảy ngày, sau đó nàng sẽ lại được đem vào.” Vậy, Mi-ri-am bị cầm giữ bên ngoài trại quân bảy ngày. Dân chúng không ra đi cho đến ngày nàng được đem về trại quân. Sau đó, dân chúng rời Hát-sê-rốt ra đi và cắm trại tại sa mạc Pha-ran. Trinh Sát Xứ Ca-na-an CHÚA bảo Môi-se: “Con hãy sai một số người đi trinh sát đất nước Ca-na-an mà Ta đang ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Mỗi bộ tộc phải cử đi một người lãnh đạo.” Vậy, từ sa mạc Pha-ran, Môi-se cử họ ra đi, theo lệnh CHÚA. Tất cả đều là những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên. Đây là danh sách của họ: Bộ tộc Ru-bên: Sam-mua, con trai Xa-cu. Bộ tộc Si-mê-ôn: Sa-phát, con trai Hô-ri. Bộ tộc Giu-đa: Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. Bộ tộc Y-sa-ca: Di-ganh, con trai Giô-sép. Bộ tộc Ép-ra-im: Hô-sê, con trai Nun. Bộ tộc Bên-gia-min: Phanh-ti, con trai Ra-phu. Bộ tộc Sa-bu-luân: Gát-đi-ên, con trai Sô-đi. Bộ tộc Ma-na-se: Ga-đi, con trai Su-si. Bộ tộc Đan: A-mi-ên, con trai Ghê-ma-li. Bộ tộc A-se: Sê-thu, con trai Mi-ca-ên. Bộ tộc Nép-ta-li: Nách-bi, con trai Vấp-si. Bộ tộc Gát: Gu-ên, con trai Ma-ki. Đó là tên những người Môi-se sai đi trinh sát xứ ấy Môi-se đổi tên Hô-sê, con trai Nun thành Giô-suê. Khi Môi-se sai họ đi trinh sát xứ Ca-na-an, ông bảo: “Các ngươi hãy đi suốt xứ Nê-ghép đến tận vùng đồi núi, xem thử đất đai như thế nào, dân chúng xứ ấy mạnh hay yếu, ít hay nhiều, đất đai họ sinh sống ra làm sao? Tốt hay xấu? Các thành họ cư trú thuộc loại nào? Không có tường thành bao bọc hay có tường lũy kiên cố? Đất như thế nào? Phì nhiêu hay cằn cỗi? Có cây lớn trên đất hay không? Các ngươi hãy cố gắng mang về một ít trái cây của đất đó.” Lúc ấy đang độ nho chín đầu mùa. Vậy, họ đi lên trinh sát đất đai từ sa mạc Xin cho đến tận Rê-hốp, về hướng Lê-bô Ha-mát. Họ đi lên qua xứ Nê-ghép và đến Hếp-rôn, là nơi sinh sống của A-hi-man, Sê-sai và Thanh-mai, dòng dõi của A-nác. Thành Hếp-rôn được xây cất bảy năm trước thành Xô-an bên Ai-cập. Đến trũng Ếch-côn, họ cắt một nhánh cây nho có một chùm nho, phải hai người lấy sào khiêng mới nổi; ngoài ra còn một số thạch lựu và trái vả. Địa điểm này được gọi là trũng Ếch-côn, vì dân Y-sơ-ra-ên đã cắt chùm nho ở đó. Sau khi trinh sát xứ ấy bốn mươi ngày, họ quay về. Lời Báo Cáo Về Cuộc Trinh Sát Họ quay về với Môi-se, A-rôn và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên trong sa mạc Pha-ran. Các thám tử báo cáo cho họ và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và cho xem hoa quả trong xứ. Họ báo cáo với Môi-se: “Chúng tôi đã vào đất ấy như ông sai bảo chúng tôi; thật là đất tràn đầy sữa và mật. Đây là hoa quả xứ ấy. Tuy nhiên, cư dân xứ này thật mạnh mẽ; các thành họ rất lớn và có lũy bao bọc. Chúng tôi thấy dòng dõi của A-nác tại đó nữa. Người A-ma-léc ở trong xứ Nê-ghép, người Hê-tít, Giê-bu-sít và A-mô-rít ở trên vùng đồi núi; còn người Ca-na-an sống gần biển và dọc sông Giô-đanh.” Lúc ấy, Ca-lép khuyến khích dân chúng trước mặt Môi-se mà bảo: “Chúng ta phải đi lên chiếm hữu đất đai này, chắc chắn chúng ta có thể thắng họ.” Nhưng những người kia là các bạn thám tử của Ca-lép lại nói: “Chúng ta không thể nào tiến công dân xứ đó vì họ mạnh hơn chúng ta.” Họ tuyên truyền trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, dùng lời báo cáo sai lầm về xứ họ đã trinh sát. Họ nói: “Đất đai chúng tôi trinh sát đang ăn nuốt dân cư trong đó. Tất cả những người chúng tôi thấy đều thuộc hạng khổng lồ. Chúng tôi cũng thấy những người Nê-phi-lim, dòng dõi của A-nác từ Nê-phi-lim mà ra. Chúng tôi thấy mình bé nhỏ như cào cào, và dưới mắt họ chúng tôi cũng thế.” Dân Y-sơ-ra-ên Nổi Loạn Đêm ấy, tất cả dân chúng đều lớn tiếng khóc than. Tất cả dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm chống nghịch Môi-se và A-rôn. Toàn dân nói với hai ông: “Ước gì chúng tôi đã chết tại Ai-cập, hoặc qua đời trong sa mạc cho rồi! Tại sao CHÚA đem chúng tôi ra khỏi đất ấy để bắt chúng tôi phải ngã chết dưới lưỡi gươm? Vợ con chúng tôi sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Chúng tôi quay về Ai-cập chẳng hơn sao?” Rồi họ bảo nhau: “Chúng ta phải chọn một vị lãnh tụ và quay về Ai-cập!” Môi-se và A-rôn sấp mặt xuống trước toàn dân Y-sơ-ra-ên đang họp tại đó. Giô-suê con trai Nun và Ca-lép con trai Giê-phu-nê là hai người trong các thám tử xé áo mình và nói cùng toàn thể Y-sơ-ra-ên: “Đất đai chúng tôi đi trinh sát thật quá tốt. Nếu CHÚA đẹp lòng với chúng ta, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta vào xứ ấy, là nơi đất đai đầy tràn sữa và mật, Ngài sẽ ban xứ ấy cho chúng ta. Chỉ xin anh chị em đừng nổi loạn chống nghịch CHÚA. Đừng sợ dân xứ ấy vì chúng ta sẽ nuốt chửng họ đi. Họ không còn được bảo vệ nữa, nhưng CHÚA đang ở với chúng ta. Đừng sợ họ!” Nhưng toàn thể dân chúng bàn nhau đòi ném đá hai người. Ngay lúc ấy, vinh quang của CHÚA xuất hiện tại Trại Hội Kiến cho cả dân Y-sơ-ra-ên. CHÚA phán với Môi-se: “Dân này khinh dể Ta cho đến bao giờ? Chúng không chịu tin Ta cho đến bao giờ, mặc dù Ta đã làm bao nhiêu dấu lạ giữa chúng? Ta sẽ đánh giết chúng bằng một trận dịch và tuyệt diệt chúng, nhưng Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn hơn và mạnh hơn chúng.” Môi-se thưa với CHÚA: “Như thế dân Ai-cập sẽ nghe điều đó! Chúa đã dùng quyền năng để đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập. Họ sẽ thuật lại cho cư dân xứ này biết điều đó. Lạy CHÚA, họ đã nghe rằng CHÚA đang ở với dân tộc này và rằng, lạy CHÚA, CHÚA đã được người ta thấy tận mặt, rằng đám mây của CHÚA đã ngự trên họ, và rằng CHÚA đã đi trước họ ban ngày trong một trụ mây và ban đêm trong một trụ lửa. Nếu CHÚA tuyệt diệt dân này một loạt thì các nước đã nghe báo cáo về CHÚA sẽ nói: CHÚA không thể nào đem dân Ngài vào đất đã thề hứa ban cho họ, nên Ngài giết họ đi trong sa mạc. Bây giờ, xin CHÚA bày tỏ quyền năng vĩ đại của Ngài như CHÚA đã công bố: CHÚA chậm giận, dư dật tình yêu thương, tha thứ tội lỗi và sự phản nghịch. Nhưng Ngài không để kẻ có tội thoát khỏi hình phạt; Ngài phạt con cháu về tội lỗi của cha mẹ cho đến đời thứ ba và thứ tư. Xin CHÚA tha tội cho dân này; vì tình thương không hề thay đổi của Ngài; cũng như Ngài đã bao lần tha thứ cho họ từ khi còn ở Ai-cập cho đến ngày nay.” CHÚA đáp: “Theo lời con xin, Ta tha cho họ. Nhưng thật như Ta hằng sống, vinh quang Ta sẽ tràn ngập đất. Trong tất cả những người thấy vinh quang Ta, sẽ không một ai được thấy đất đai Ta đã hứa ban cho tổ tiên họ; họ đã thấy các phép lạ Ta làm tại Ai-cập cũng như trong sa mạc, nhưng đã mười lần họ vẫn thử Ta và không vâng lời Ta. Không một ai trong tất cả những người khinh dể Ta sẽ được thấy đất ấy. Nhưng tôi tớ Ta là Ca-lép, có một tinh thần khác biệt, đã hết lòng theo Ta; nên Ta sẽ đưa Ca-lép vào đất người đã trinh sát, và con cháu người sẽ hưởng chủ quyền đất ấy.” Lúc ấy người A-ma-léc và người Ca-na-an đang sống trong thung lũng. CHÚA phán: “Ngày mai, các người sẽ quay lại, đi vào sa mạc theo hướng Biển Đỏ.” CHÚA bảo Môi-se và A-rôn: “Những kẻ tội lỗi này còn phàn nàn oán trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe hết những lời của người Y-sơ-ra-ên phàn nàn rồi. Con bảo họ rằng: ‘CHÚA phán: Thật như Ta hằng sống, Ta sẽ làm cho các ngươi y như những lời Ta nghe các ngươi kêu ca. Thân xác các ngươi sẽ ngã xuống trong sa mạc này; tất cả các ngươi là những người có tên trong cuộc kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên đều sẽ chết hết vì các ngươi oán trách Ta. Không một ai trong các ngươi sẽ được vào đất hứa, trừ Ca-lép con của Giê-phu-nê và Giô-suê con của Nun. Đối với con cái của các ngươi, các ngươi nói rằng chúng nó sẽ làm mồi cho địch, nhưng Ta sẽ đưa con cái các ngươi vào đất các ngươi chê bỏ. Còn về chính các ngươi thì thây các ngươi sẽ nằm rạp trong sa mạc này. Vì các ngươi bất trung, nên con cái các ngươi phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến ngày người sau cùng trong các ngươi chết đi trong sa mạc. Theo số ngày các ngươi đi trinh sát xứ, là bốn mươi ngày, và mỗi ngày tính thành một năm, các ngươi phải mang tội ác mình trong bốn mươi năm, rồi các người sẽ ý thức được hậu quả của việc chống nghịch Ta. Ta là CHÚA, Ta đã phán và Ta sẽ thi hành điều ấy cho toàn thể hội chúng gian ác này. Chúng đã toa rập nhau chống lại Ta, chúng sẽ chết hết trong sa mạc này không sót một người.’ ” Riêng các thám tử mà Môi-se đã sai đi trinh sát xứ, khi trở về có xui cho dân chúng lằm bằm cùng Môi-se, những người xuyên tạc, nói xấu xứ đó đều bị tai vạ hành chết ngay trước mặt CHÚA. Trong những người đi trinh sát xứ chỉ có Giô-suê, con trai của Nun, và Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê còn sống được. Môi-se thuật lại mọi lời của Chúa cho dân Y-sơ-ra-ên, nên họ vô cùng sầu thảm. Sáng hôm sau, họ dậy sớm, leo lên núi và nói: “Chúng tôi đã phạm tội. Nhưng bây giờ chúng tôi sẵn sàng đi lên xứ mà CHÚA đã chỉ định.” Nhưng Môi-se nói: “Đã đến nước này mà anh em còn cãi mạng Chúa? Làm vậy anh em chỉ có thất bại. Anh em đừng đi lên vì CHÚA không ở cùng anh em. Anh em sẽ chết dưới lưỡi gươm của quân A-ma-léc và Ca-na-an vì anh em đã chối bỏ CHÚA, nên Ngài cũng từ bỏ anh em.” Nhưng họ ngoan cố cứ tiến lên núi, mặc dù Rương Giao Ước cũng như Môi-se đều ở lại trong trại. Quân A-ma-léc và Ca-na-an ở trên núi đổ xuống đánh giết họ và đánh đuổi họ chạy dài cho đến Họt-ma. Luật Lệ Về Các Tế Lễ Khác CHÚA phán dạy Môi-se: “Con phải bảo dân Y-sơ-ra-ên: Sau khi các ngươi vào đất Ta đang ban cho ngươi định cư, và khi các ngươi dâng cho CHÚA các tế lễ bằng lửa lấy từ bầy bò và bầy cừu mình để có mùi thơm đẹp lòng CHÚA, hoặc tế lễ thiêu, hoặc sinh tế về những lời thề nguyện đặc biệt hay tự hiến, hoặc lễ vật dâng lên nhân kỳ lễ thì người đem dâng tế lễ phải dâng cho CHÚA một tế lễ chay một phần mười ê-pha15:4 2 lít bột mì mịn trộn với một phần tư hin15:4 1 lít dầu. Cứ mỗi con chiên dâng làm tế lễ thiêu, hoặc cứ mỗi sinh tế, con hãy chuẩn bị một phần tư hin rượu làm lễ tưới rượu.15:5 đổ rượu xung quanh chân bàn thờ Khi dâng một con chiên đực hãy chuẩn bị tế lễ chay bằng hai phần mười ê-pha15:6 4.5 lít bột mịn trộn với một phần ba hin15:6 1.2 lít dầu, và một phần ba hin rượu làm lễ tưới rượu. Các ngươi hãy dâng tế lễ đó như một thứ hương thơm đẹp lòng CHÚA. Khi dâng một con bò đực tơ làm tế lễ thiêu hay làm sinh tế vì một lời hứa nguyện đặc biệt, hay vì một tế lễ cầu an cho CHÚA, hãy đem theo con bò đực, một tế lễ chay bằng ba phần mười ê-pha15:9 6.5 lít bột mịn trộn với nửa hin15:9 2 lít dầu. Cũng hãy đem đến nửa hin rượu làm lễ tưới rượu. Đó là một tế lễ dâng bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Mỗi con bò đực hay cừu đực, mỗi con chiên con hay dê con đều phải chuẩn bị dâng lễ theo cách đó. Hãy chuẩn bị cách ấy cho từng con một, dâng bao nhiêu sinh tế đều phải dâng theo bấy nhiêu tế lễ chay. Mỗi người sinh trưởng trong đất nước đều phải làm theo cách ấy khi đem dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Nếu một người ngoại kiều sống giữa các ngươi, dù chỉ tạm trú trong một thời gian ngắn hoặc định cư lâu dài qua nhiều thế hệ, muốn dâng tế lễ bằng lửa có mùi thơm đẹp lòng CHÚA thì phải làm y như vậy. Chỉ có một quy luật áp dụng cho hội chúng các ngươi cũng như cho ngoại kiều sống giữa vòng các ngươi. Đó là một quy luật đời đời trải qua các thế hệ. Đối với CHÚA, các ngươi và người ngoại kiều đều như nhau. Các luật lệ và sắc lệnh áp dụng cho các ngươi cũng áp dụng cho ngoại kiều sống giữa các ngươi y như vậy.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vào xứ mà Ta đang dẫn các ngươi đến, khi được ăn thực phẩm trong xứ đó, hãy dâng một phần thực phẩm làm lễ vật cho CHÚA. Hãy dâng một chiếc bánh bằng bột đầu mùa làm một tế lễ từ sân đạp lúa. Suốt các thế hệ tương lai cũng thế, các ngươi phải dâng tế lễ này cho CHÚA lấy từ trong bột đầu mùa.” Tế Lễ Chuộc Tội Vô Tình Mà Phạm “Nếu ngươi vô tình không giữ một điều răn nào CHÚA đã ban hành cho Môi-se, tức là điều răn của CHÚA dùng ông mà ban cho các ngươi từ ngày CHÚA ban hành cho đến những thế hệ tương lai, nếu vô tình phạm tội mà hội chúng không biết, thì cả hội chúng phải dâng một con chiên đực làm tế lễ thiêu có mùi thơm đẹp lòng CHÚA luôn với lễ chay và lễ tưới rượu như đã ấn định, và một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên thì họ sẽ được tha vì đó là tội vô tình vì không cố ý phạm tội và họ đã đem đến cho CHÚA một tế lễ dâng lên bằng lửa và một tế lễ chuộc tội. Toàn dân Y-sơ-ra-ên và các người ngoại kiều sống giữa họ sẽ được tha tội vì toàn dân đều can dự vào việc phạm tội vô tình. Nhưng nếu chỉ một người phạm tội vô tình, người ấy phải mang đến một con dê cái một tuổi làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ phải làm tế lễ chuộc tội trước mặt CHÚA cho kẻ đi sai lạc mà phạm tội vô tình. Khi đã làm tế lễ chuộc tội cho mình, người ấy sẽ được tha thứ. Luật này áp dụng cho mọi người phạm tội vô tình dù là người Y-sơ-ra-ên sinh trong xứ hay người ngoại kiều. Nhưng bất luận người nào cố ý phạm tội, dù sinh trong xứ hay người ngoại kiều đều đã phạm thượng với CHÚA nên kẻ ấy phải bị truất ra khỏi dân chúng. Vì đã khinh dể lời của CHÚA và phạm điều răn Ngài, nên kẻ ấy chắc chắn phải bị truất diệt; nó phải chịu trách nhiệm về tội mình.” Xử Tử Một Kẻ Phạm Ngày Sa-bát Trong thời gian dân Y-sơ-ra-ên ở trong sa mạc, họ bắt được một người đi lượm củi ngày Sa-bát. Những người chứng kiến người ấy đang lượm củi mang nó đến cho Môi-se, A-rôn và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên. Họ giam giữ anh vì chưa rõ phải xử trí thế nào. CHÚA phán dạy Môi-se: “Người này phải chết. Cả hội chúng phải ném đá người ngoài trại quân.” Vậy, hội chúng đem anh ra ngoài trại quân và ném đá xử tử anh như lời CHÚA đã truyền cho Môi-se. Các Tua Áo CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Suốt các thế hệ tương lai, phải làm các tua nơi góc các chiếc áo, và kết một sợi dây xanh trên mỗi tua áo. Các ngươi phải nhìn các tua áo ấy để nhớ lại tất cả các điều răn của CHÚA hầu cho các ngươi tuân hành và không làm băng hoại mình bằng cách đi theo các dục vọng của lòng và mắt mình. Các tua áo sẽ giúp các ngươi nhớ lại và tuân hành mọi điều răn của Ta. Như vậy các ngươi sẽ biệt mình riêng ra thánh cho Ta, là Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi.” Cô-rê, Đa-than Và A-bi-ram Cô-rê, con trai Đít-sê-hu, cháu của Kê-hát, chắt của Lê-vi và mấy người Ru-bên là Đa-than và A-bi-ram, con trai Ê-li-áp, với Ôn, con trai Phê-lết xấc xược nổi lên chống nghịch Môi-se. Cùng theo họ có 250 người Y-sơ-ra-ên đều là cấp lãnh đạo bộ tộc danh tiếng, đã từng được bổ nhiệm vào nghị viên hội đồng. Họ kết đảng chống nghịch Môi-se và A-rôn, và tố cáo: “Các ông thật là quá quắt, toàn thể hội chúng đều là thánh, và CHÚA đang ở với mỗi người trong hội chúng. Vậy, tại sao hai ông đặt mình lên cao hơn hội chúng của CHÚA?” Nghe lời ấy, Môi-se quỳ mọp xuống đất. Ông nói với Cô-rê và tất cả phe đảng của người này: “Sáng mai, CHÚA sẽ tỏ cho biết ai thuộc về Ngài và ai là thánh, Ngài sẽ cho người ấy đến gần Ngài. Người nào Ngài chọn sẽ được Ngài đem đến gần bên Ngài. Ngươi, Cô-rê, và tất cả những người theo ngươi đều phải làm điều này: Hãy cầm lấy lư hương, và ngày mai, trước mặt CHÚA, hãy để lửa và trầm hương vào. Người nào CHÚA chọn chính là người thánh. Những người Lê-vi theo ngươi thật là quá quắt!” Môi-se cũng bảo Cô-rê: “Này các người Lê-vi của ngươi, bây giờ hãy nghe đây! Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã biệt riêng các ngươi khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên và đem các ngươi đến gần Ngài để làm công việc tại Đền Tạm của CHÚA, và để các ngươi đứng trước mặt hội chúng và phục vụ họ, việc ấy chưa đủ sao? Ngài đã đem ngươi và tất cả anh em người Lê-vi đến gần Ngài, thế mà bây giờ các ngươi lại muốn chiếm đoạt chức tế lễ nữa. Ngươi và tất cả những người theo ngươi đã cấu kết với nhau để chống nghịch CHÚA. A-rôn là ai mà các ngươi lằm bằm chống nghịch người?” Sau đó, Môi-se mời Đa-than và A-bi-ram đến, hai người là con trai của Ê-li-áp. Nhưng họ đáp: “Chúng tôi không đến đâu! Ông đã đem chúng tôi ra khỏi một xứ đượm sữa và mật để giết chúng ta trong sa mạc, như thế chưa đủ sao? mà bây giờ ông còn muốn tể trị trên chúng ta sao? Hơn nữa, ông đâu có đem chúng tôi vào một xứ đượm sữa và mật, đâu có cho chúng tôi thừa hưởng ruộng đất và vườn nho? Liệu ông muốn móc mắt những người đó sao? Không, chúng tôi không đến đâu!” Môi-se giận lắm nên thưa với CHÚA: “Xin Chúa đừng nhậm tế lễ của họ! Tôi chẳng từng lấy của họ một con lừa, cũng chẳng bao giờ làm thương tổn một ai trong vòng họ.” Môi-se bảo Cô-rê: “Ngày mai, ngươi và tất cả những người theo ngươi cùng với A-rôn phải trình diện trước mặt CHÚA. Mỗi người phải lấy lư hương mình và đặt trầm hương vào rồi dâng lên trước mặt CHÚA, tất cả là hai trăm năm mươi lư hương. Ngươi và A-rôn cũng phải cầm lư hương mình.” Vậy, mỗi người đều cầm lư hương, đặt lửa và trầm hương vào, rồi đứng với Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến. Khi Cô-rê tập hợp tất cả những người theo mình chống nghịch Môi-se và A-rôn tại cửa Trại Hội Kiến, vinh quang của CHÚA hiện ra với toàn thể hội chúng. CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Hai con hãy tách rời khỏi hội chúng này để Ta tiêu diệt chúng ngay lập tức.” Nhưng Môi-se và A-rôn quỳ mọp xuống và kêu xin: “Ôi, lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của tâm linh mọi người, Chúa nổi giận với cả hội chúng vì một người phạm tội hay sao?” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo hội chúng: Hãy tách rời trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram!” Môi-se vùng dậy chạy về phía Đa-than và A-bi-ram, theo sau có các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên. Ông cảnh cáo hội chúng: “Hãy dang xa các trại của những người gian ác này, đừng đụng đến bất luận vật gì thuộc về họ, kẻo các ngươi cũng bị quét sạch vì tất cả tội lỗi của họ chăng?” Vậy, dân chúng dang xa ra khỏi trại của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram. Trước đó, Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram đứng tại cửa trại mình cùng với vợ con, kể cả các con nhỏ. Môi-se nói: “Nhờ việc này, các ngươi sẽ biết CHÚA đã sai ta thực hiện các công tác đó chứ không phải do ý riêng ta. Nếu những kẻ đó chết cách thường tình và chỉ gặp những điều xảy ra cho con người, thì CHÚA không có sai ta. Nhưng nếu CHÚA làm một việc hoàn toàn mới lạ, nếu đất hả miệng nuốt họ đi với tất cả những gì thuộc về họ, và họ còn sống mà xuống đáy mộ, thì các ngươi sẽ biết những kẻ này đã khinh dể CHÚA.” Ông vừa nói xong những lời đó, đất dưới chân họ liền nứt ra, và đất hả miệng nuốt trửng họ với gia đình họ cùng với tất cả những người theo Cô-rê và trọn tài sản họ. Họ còn sống mà xuống Âm Phủ với tất cả những gì thuộc về họ. Đất khép miệng lại trên họ và họ chết mất, vì bị tuyệt diệt giữa hội chúng mình. Nghe tiếng họ kêu thét lên, tất cả dân Y-sơ-ra-ên xung quanh họ đều chạy trốn và la hoảng: “Đất cũng sắp nuốt trửng chúng ta!” Một ngọn lửa từ CHÚA lòe ra đốt chết 250 người đang dâng hương. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo Ê-lê-a-sa con trai A-rôn, thầy tế lễ, thu lượm các lư hương ra khỏi chỗ lửa cháy, và vãi than của các lư hương nơi xa vì các lư hương đó đã nên thánh, tức là các lư hương của những người đã phạm tội mà bị thiệt mạng. Hãy dùng búa dát mỏng các lư hương ấy, làm thành những tấm đồng để bọc bàn thờ, vì các lư hương ấy đã được dâng lên trước mặt CHÚA và đã được thánh hóa. Hãy để các tấm ấy làm một dấu hiệu cho Y-sơ-ra-ên!” Vậy, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thu lượm các lư hương bằng đồng của những kẻ bị chết cháy rồi dùng búa dát mỏng để bọc bàn thờ. Đó là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên để nhắc nhở những người ngoài dòng dõi A-rôn đừng đến gần để xông hương trước mặt CHÚA, kẻo bị chung số phận với Cô-rê và những kẻ theo ông. Hôm sau, toàn thể hội chúng đều lầm bầm chống nghịch Môi-se và A-rôn: “Hai ông đã giết hại dân CHÚA!” Khi hội chúng đang họp nhau chống nghịch Môi-se và A-rôn, họ ngoảnh lại nhìn Trại Hội Kiến, thình lình mây che phủ trại và vinh quang của CHÚA xuất hiện. Môi-se và A-rôn liền đi đến trước Trại Hội Kiến. CHÚA bảo Môi-se: “Hãy ra khỏi giữa hội chúng này thì Ta sẽ tiêu diệt chúng nó ngay lập tức!” Môi-se và A-rôn liền sấp mặt xuống đất. Môi-se bảo A-rôn: “Xin anh cầm lư hương mình, đặt trầm hương vào với lửa lấy từ bàn thờ rồi đi gấp đến giữa hội chúng để làm tế lễ chuộc tội cho họ. Vì CHÚA đã nổi thạnh nộ và trận dịch đã bắt đầu!” Vậy, A-rôn làm theo điều Môi-se căn dặn và chạy vào giữa hội chúng. Trận dịch đã bắt đầu hành hại dân chúng, nhưng A-rôn dâng hương và chuộc tội cho họ. Ông cứ đứng giữa người sống và người chết, trận dịch ngừng lại. Nhưng 14,700 người đã chết vì trận dịch đó, ngoài những kẻ đã chết vì Cô-rê. Lúc ấy, A-rôn quay lại với Môi-se tại cửa Trại Hội Kiến vì trận dịch đã chấm dứt. Gậy Của A-rôn CHÚA dạy Môi-se: “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên, mỗi trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên đem đến một cây gậy; nghĩa là mười hai cây gậy, mỗi cây cho bộ tộc của mình. Con phải đề tên mỗi người trên cây gậy của mình, và đề tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi; vì phải có một cây gậy cho mỗi trưởng bộ tộc. Con đem các gậy này đặt trong Trại Hội Kiến, trước Rương Giao Ước, là nơi Ta sẽ gặp con. Gậy của người được Ta chọn sẽ trổ hoa, như vậy dân chúng sẽ không còn lý do gì để phàn nàn con nữa.” Môi-se nói lại với người Y-sơ-ra-ên, và các trưởng bộ tộc vâng theo huấn thị, đem gậy đến. Môi-se đem để mười hai cây gậy trong Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Gậy của A-rôn ở giữa các gậy khác. Ngày hôm sau, khi Môi-se trở vào Trại Hội Kiến, ông thấy cây gậy của A-rôn tượng trưng cho bộ tộc Lê-vi, đã đâm chồi, trổ hoa, và kết quả, có trái hạnh nhân đã chín. Môi-se đem các cây gậy từ trong Trại Hội Kiến ra cho mọi người xem, họ sững sờ đứng nhìn, và cuối cùng các trưởng bộ tộc lấy gậy mình về. Nhưng CHÚA lại bảo Môi-se: “Đem gậy của A-rôn đặt tại trước Rương Giao Ước, dùng nhắc nhở, cảnh cáo dân chúng về vụ nổi loạn này, để họ khỏi chết vì tai vạ và không bao giờ dám phàn nàn Ta nữa.” Môi-se vâng lời CHÚA. Người Y-sơ-ra-ên hoảng sợ nói với Môi-se: “Này chúng tôi bị diệt, chúng tôi bị chết, chúng tôi chết mất hết thảy! Phàm ai đến gần Trại Hội Kiến đều chết, thì chúng tôi chết hết sao?” Chức Vụ Thầy Tế Lễ CHÚA bảo A-rôn: “Con, các con trai cùng cả gia đình con phải chịu trách nhiệm về những tội xúc phạm Nơi Thánh. Cũng vậy, con và các con trai con phải chịu trách nhiệm về những tội liên hệ đến chức vụ thầy tế lễ. Tất cả những người trong bộ tộc Lê-vi, gia tộc của con, là người giúp việc cho con. Tuy nhiên, chỉ có con và các con trai con được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Các người Lê-vi khác phải chu toàn trách nhiệm của họ đối với con và toàn thể công việc tại trại, tuy nhiên họ không được đến gần các vật dụng trong Nơi Thánh và bàn thờ, để họ lẫn con khỏi phải chết. Họ sẽ kết hiệp với con và đảm trách công việc tại Trại Hội Kiến, tất cả công việc tại trại, nhưng không một ai khác được phép đến gần các con trong khi các con phụ trách công việc tại Nơi Thánh và trước bàn thờ kẻo cơn thịnh nộ Ta nổi lên chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi đã được Ta chọn trong dân Y-sơ-ra-ên, họ đã được dâng cho CHÚA, này Ta giao họ cho con để giúp con trong công việc Trại Hội Kiến. Ta cũng ủy nhiệm cho con chức vụ thầy tế lễ, chỉ có con và các con trai con thi hành chức vụ này trước bàn thờ và bên trong bức màn. Ngoài ra, người nào đụng đến các công việc này đều phải chết.” CHÚA nói tiếp với A-rôn: “Ngoài ra, Ta còn cho các ngươi tất cả các lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối đưa qua đưa lại trước CHÚA. Các lễ vật thánh đều thuộc về con và các con trai con. Lệ này được áp dụng đời đời. Trừ phần được đem đốt dâng lên, phần còn lại của các lễ vật ngũ cốc, lễ vật chuộc tội và lễ vật chuộc lỗi đều thuộc về con và các con trai con. Đó là những vật rất thánh, chỉ được ăn tại một Nơi Thánh và chỉ nam giới mới được ăn. Còn các lễ vật được dâng lên theo lối đưa qua đưa lại cũng thuộc về con, nhưng mọi người trong gia đình, nam lẫn nữ đều được phép ăn, nếu họ tinh sạch. Ta ban cho con phần tốt nhất của dầu, rượu mới và thóc, tất cả các lễ vật đầu mùa người ta đem dâng lên CHÚA. Ta cũng ban cho con tất cả các lễ vật đầu mùa của các thổ sản khác người ta dâng lên CHÚA. Mọi người tinh sạch trong gia đình con đều được phép ăn. Vậy, tất cả mọi vật người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho Ta đều thuộc về con, kể cả các con trưởng nam và thú vật đầu lòng của họ. Tuy nhiên, con trưởng nam và con đực đầu lòng của thú vật không sạch phải được chuộc lại. Khi chúng được một tháng, giá chuộc tương đương với năm sê-ken bạc18:16 Nt: 1 lượng rưởi bạc theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Nhưng con đực đầu lòng của các loài bò, cừu và dê thì không được chuộc vì chúng được biệt riêng ra thánh. Phải lấy huyết chúng rảy lên bàn thờ, lấy mỡ đem đốt, đó là một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Thịt của các sinh tế này thuộc về con, đặc biệt là cái ngực được đưa qua đưa lại và cái đùi bên phải. Tóm lại, Ta cho con mọi lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối đưa qua đưa lại trước CHÚA, mọi người trong gia đình con, nam lẫn nữ đều được phép ăn. Đây là luật lệ đời đời, là một giao ước bất di bất dịch18:19 Nt: giao ước muối giữa CHÚA với con và con cháu con.” CHÚA tiếp: “Tuy nhiên con sẽ không được thừa hưởng đất đai, con không có phần gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên. Chính Ta là phần của con, là sản nghiệp của con giữa họ. Tất cả những phần mười mà dân Y-sơ-ra-ên dâng lên Ta, Ta ban cho người Lê-vi vì công khó họ phục dịch trong Trại Hội Kiến. Từ nay về sau, người Y-sơ-ra-ên sẽ không ai vào Trại Hội Kiến để khỏi mắc tội và khỏi chết. Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm về công việc Trại Hội Kiến, và nếu có lỗi lầm, họ sẽ mang tội. Đây là một luật đời đời được áp dụng qua các thế hệ: người Lê-vi sẽ không thừa hưởng tài sản trong Y-sơ-ra-ên, vì Ta đã cho họ một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, là phần dân chúng đem dâng lên CHÚA, chính vì thế mà Ta phán về người Lê-vi rằng họ không được thừa hưởng gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên.” CHÚA cũng nói với Môi-se: “Con bảo người Lê-vi khi nhận được một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên mà CHÚA ban cho anh em hưởng, phải lấy một phần mười trong số phần mười đó dâng cho CHÚA. Lễ vật này sẽ được coi như lễ vật đầu mùa chọn lọc, như ngũ cốc dâng từ sân đạp lúa, như rượu nho dâng từ bồn ép nho của họ vậy. Vậy trong tất cả những phần mười anh em nhận được từ dân Y-sơ-ra-ên, anh em phải dành riêng một lễ vật dâng lên CHÚA, và anh em hãy giao lễ vật ấy cho thầy tế lễ A-rôn. Trong tất cả những món quà anh em nhận được, anh em hãy dành riêng phần tốt nhất dâng lên CHÚA; đó là phần biệt riêng ra thánh cho CHÚA.” Con hãy nói tiếp với người Lê-vi: “Một khi anh em đã dâng phần tốt nhất rồi, phần còn lại sẽ được kể như thổ sản từ sân đạp lúa và bồn ép nho. Phần còn lại này anh em và gia đình được phép ăn bất kỳ nơi nào vì đó là thù lao cho công khó anh em phục dịch tại Trại Hội Kiến. Nếu anh em dâng phần tốt nhất lên CHÚA, anh em sẽ không mắc tội khi ăn phần còn lại. Khi anh em dâng lên CHÚA phần tốt nhất trước khi ăn, anh em sẽ không mắc tội xúc phạm lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và khỏi phải chết.” Nước Tẩy Uế CHÚA dạy Môi-se và A-rôn: “Đây là một điều khoản trong luật CHÚA ban hành: Người Y-sơ-ra-ên phải chọn một con bò cái tơ màu đỏ, không tì vết, chưa mang ách. Hãy đem con bò đó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và chọc tiết trước mặt người. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa sẽ lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, rảy bảy lần hướng về phía Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ sẽ trông coi việc thiêu con bò: cả da, thịt, huyết và phân. Thầy tế lễ sẽ lấy cây bách hương, cành bài hương thảo và chỉ đỏ ném vào con bò đang cháy. Sau đó, thầy tế lễ phải giặt áo, tắm rồi mới vào trại và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Người đốt con bò cũng phải giặt quần áo, tắm và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò chứa vào một nơi tinh sạch bên ngoài trại. Người Y-sơ-ra-ên sẽ giữ tro này dùng làm nước tẩy uế; con bò đó là tế lễ chuộc tội. Người hốt tro phải giặt áo và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Luật này là luật đời đời, áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên cũng như cho ngoại kiều. Ai đụng vào xác người chết phải bị ô uế bảy ngày. Người ấy phải dùng nước tẩy uế tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy thì sẽ được sạch. Nếu không tẩy mình như thế, sẽ không được sạch. Người nào đụng vào xác người chết mà không tẩy mình cho sạch, xúc phạm đến Trại Hội Kiến của CHÚA, phải bị trục xuất ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Người ấy vẫn bị ô uế vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình. Khi có người chết trong trại, phải áp dụng luật này: Người nào vào trại và người nào ở trong trại ấy đều bị ô uế bảy ngày. Nếu trong trại ấy có bình không đậy nắp, sẽ bị ô uế. Bên ngoài đồng trống, nếu ai đụng vào một người chết vì đâm chém, hoặc đụng vào một người chết tự nhiên, xương người chết hay mồ mả, người ấy sẽ bị ô uế bảy ngày. Muốn tẩy sạch những người này, phải lấy một ít tro của con bò thiêu làm sinh tế chuộc tội bỏ vào một cái bình, rồi lấy nước19:17 Nt: nước chảy đổ vào. Một người tinh sạch sẽ lấy cành bài hương thảo nhúng vào bình, rảy nước trên trại, trên tất cả đồ dùng trong trại, trên cả những người ở trong trại đó, và trên những người đã đụng vào xương người chết hay mồ mả, đụng vào người chết vì đâm chém hay chết tự nhiên. Người tinh sạch phải rảy nước trên người ô uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và vào ngày thứ bảy, việc tẩy uế hoàn tất. Người bị ô uế phải giặt áo, tắm rửa thì tối hôm ấy sẽ được sạch. Nhưng nếu người ô uế không lo tẩy mình, phải bị trục xuất khỏi hội chúng vì đã xúc phạm đến Nơi Thánh của CHÚA. Vì nước tẩy uế không rảy trên người ấy, người ấy không được sạch. Đây là một luật áp dụng vĩnh viễn. Người rảy nước tẩy uế phải giặt quần áo mình, và người nào đụng vào nước tẩy uế sẽ bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Bất kỳ vật gì bị người ô uế đụng vào, đều thành ô uế; và ai đụng vào vật ấy cũng bị ô uế cho đến tối hôm ấy.” Nước Phun Ra Từ Vầng Đá Vào tháng thứ nhất, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đi vào sa mạc Xin. Họ ở lại Ca-đê, Mi-ri-am qua đời và được an táng tại đó. Vì không có nước uống, dân chúng họp nhau lại chống đối Môi-se và A-rôn. Họ trách Môi-se: “Ước gì chúng tôi cùng ngã chết với anh em chúng tôi trước mặt CHÚA! Tại sao ông đem dân của CHÚA vào sa mạc này cho cả người lẫn súc vật đều chết khát? Sao ông bắt chúng tôi bỏ Ai-cập vào nơi khốn nạn này, là nơi không ai gieo giống, trồng cây vả, cây nho, cây lựu gì được cả, là nơi không có nước uống?” Môi-se và A-rôn lìa họ, đi đến cửa Trại Hội Kiến, quỳ xuống. Vinh quang của CHÚA hiện ra. CHÚA phán bảo Môi-se: “Cầm lấy cây gậy, rồi con và A-rôn, anh con đi triệu tập dân chúng. Trước mặt họ, con sẽ bảo vầng đá kia, nó sẽ phun nước ra. Con sẽ cho họ và bầy gia súc của họ uống nước chảy ra từ vầng đá.” Vậy Môi-se cầm lấy cây gậy trước mặt CHÚA theo lời Ngài dạy. Môi-se và A-rôn triệu tập dân chúng lại trước vầng đá, rồi Môi-se nói: “Những kẻ phản loạn kia, nghe đây! Chúng ta phải lấy nước từ trong vầng đá này ra cho các ngươi uống sao?” Nói xong, ông giơ gậy lên đập vào vầng đá hai lần. Nước bắn vọt ra. Người và thú vật đều uống. Nhưng CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: “Vì các ngươi không tin Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, nên các ngươi sẽ không dẫn dân vào đất Ta đã hứa cho họ.” Nơi đó là nước Mê-ri-ba,20:13 Nghĩa là chống đối, cãi cọ nơi người Y-sơ-ra-ên chống đối CHÚA, và cũng là nơi Ngài tỏ đức thánh khiết của Ngài ra giữa họ. Người Ê-đôm Không Cho Người Y-sơ-ra-ên Đi Qua Từ Ca-đê, Môi-se sai sứ đến nói với vua nước Ê-đôm như sau: “Đây là lời của Y-sơ-ra-ên, em vua. Vua đã biết những nỗi gian khổ của chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi đã xuống Ai-cập và ở lại đó lâu ngày; người Ai-cập ngược đãi chúng tôi, nhưng khi chúng tôi kêu la cùng CHÚA, Ngài nghe, sai thiên sứ đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Bây giờ, chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành ở đầu bờ cõi nước Ê-đôm. Xin cho phép chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi ngang qua đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng mà uống. Chúng tôi sẽ cứ đường cái mà đi, không rẽ sang phải hay trái, cho đến khi ra khỏi biên giới.” Nhưng Ê-đôm đáp: “Các ngươi không được đi qua đất nước ta. Nếu không nghe, chúng ta sẽ cầm gươm kéo ra tấn công.” Người Y-sơ-ra-ên nói: “Chúng tôi chỉ xin đi trên đường cái. Nếu chúng tôi và súc vật có uống nước, chúng tôi sẽ xin trả tiền. Chỉ xin cho chúng tôi đi qua, chúng tôi không xin gì hơn nữa.” Họ lại đáp: “Không. Các ngươi không được đi qua.” Rồi Ê-đôm kéo một đạo quân hùng hậu ra ngăn chặn. Vì Ê-đôm từ chối không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình, nên Y-sơ-ra-ên tránh đi nơi khác. A-rôn Qua Đời Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Ca-đê kéo đến núi Hô-rơ. Tại núi Hô-rơ, cạnh biên giới Ê-đôm, CHÚA phán với Môi-se và A-rôn: “A-rôn sẽ về với tổ tiên mình, không được vào đất Ta đã cho Y-sơ-ra-ên, vì hai con đã nghịch mạng Ta tại Mê-ri-ba. Đem A-rôn và con A-rôn là Ê-lê-a-sa lên núi Hô-rơ. Tại đó con sẽ lấy áo lễ của A-rôn mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời tại đó.” Môi-se tuân lệnh CHÚA. Ba người lên núi Hô-rơ trước sự chứng kiến của dân chúng. Trên đỉnh núi, Môi-se lấy bộ áo lễ của A-rôn, mặc cho Ê-lê-a-sa, con A-rôn. A-rôn qua đời trên đỉnh núi này. Sau đó, Môi-se và Ê-lê-a-sa xuống núi. Khi biết A-rôn đã mất, toàn thể dân chúng Y-sơ-ra-ên khóc ông suốt ba mươi ngày. Tiêu Diệt A-rát Khi Vua A-rát, người Ca-na-an ở phía nam nghe tin người Y-sơ-ra-ên đang tiến đến theo đường đi A-tha-rim, liền kéo ra tấn công, bắt sống được mấy người. Lúc ấy, người Y-sơ-ra-ên thề nguyện với CHÚA: “Nếu Chúa cho chúng tôi chiến thắng dân này, chúng tôi sẽ tận diệt các thành ấy của họ.” CHÚA nhậm lời cầu nguyện của người Y-sơ-ra-ên, cho họ chiến thắng Ca-na-an. Họ tận diệt quân thù, tàn phá các thành, và đặt tên nơi này là Họt-ma.21:3 Nghĩa là tận diệt Con Rắn Đồng Từ núi Hô-rơ, họ đi vòng về hướng Biển Đỏ để tránh đất Ê-đôm, và vì thế, dân chúng mất lòng kiên nhẫn. Họ xúc phạm đến Đức Chúa Trời, nói nghịch Môi-se, rằng: “Sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để chết trong sa mạc này? Ở đây chẳng có bánh, chẳng có nước. Và chúng tôi đã chán ngấy loại bánh đạm bạc này!” CHÚA sai rắn lửa đến, cắn nhiều người chết. Người ta đến nói với Môi-se: “Chúng tôi có tội vì đã nói xúc phạm đến CHÚA và ông. Xin ông cầu CHÚA để Ngài đuổi rắn đi.” Môi-se cầu thay cho dân chúng. CHÚA phán bảo Môi-se: “Làm một con rắn lửa, đem treo trên một cây trụ. Người bị rắn cắn khi nhìn đến nó thì được sống.” Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, đem treo trên một cây trụ. Ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn đồng đều được thoát chết. Đường Đi Mô-áp Người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, và dừng chân cắm trại tại Ô-bốt. Đi từ Ô-bốt, họ cắm trại tại Y-giê A-ba-rim trong sa mạc, về phía đông Mô-áp. Từ đó ra đi, họ cắm trại tại thung lũng Xê-rết. Tiếp tục ra đi, họ cắm trại trong sa mạc, bên kia sông Ạt-nôn; sa mạc này lan rộng đến lãnh thổ người A-mô-rít. Sông Ạt-nôn là biên giới xứ Mô-áp, nằm giữa Mô-áp và lãnh thổ người A-mô-rít. Vì thế trong sách chiến trận của CHÚA có ghi: “Na-hép ở Su-phơ và các thung lũng, Sông Ạt-nôn và triền thung lũng Chạy dài đến thành A-rơ, Lượn quanh biên giới Mô-áp.” Từ đó, họ tiếp tục đi đến Bê-e,21:16 Nghĩa là giếng nước và nơi đây CHÚA phán bảo Môi-se: “Tập họp dân chúng lại, Ta sẽ cho họ nước uống.” Và người Y-sơ-ra-ên ca lên như sau: “Trào nước lên, hỡi giếng Cho ta lên tiếng, hát ca Giếng vua khơi, các nhà quý tộc đào Đào bằng gậy, Khơi bằng cây phủ việt.” Rồi họ từ sa mạc đi đến Ma-tha-na. Từ Ma-tha-na họ đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt; từ Ba-mốt đến thung lũng ở trong địa phận Mô-áp, tới đỉnh núi Phích-ga, và từ đấy nhìn thấy khắp sa mạc. Đánh Bại Si-hôn Và Óc Y-sơ-ra-ên sai sứ đến nói với Si-hôn, vua A-mô-rít như sau: “Xin cho chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi vào đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng để uống. Chúng tôi sẽ theo đường cái quan cho đến khi ra khỏi lãnh thổ nhà vua.” Nhưng Si-hôn không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình. Vua đem toàn thể quân đội kéo ra sa mạc, và tấn công Y-sơ-ra-ên tại Gia-hát. Người Y-sơ-ra-ên chém chết Si-hôn, chiếm lấy đất từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, cho đến biên giới A-môn, đây là một biên cương vững chắc. Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành của người A-mô-rít, kể cả thành Hết-bôn và các làng mạc chung quanh. Hết-bôn là kinh đô của Si-hôn vua A-mô-rít. Ngày trước, Si-hôn đã chiến thắng vua Mô-áp, chiếm đất của vua này tới Ạt-nôn. Cho nên, có thi sĩ đã viết: “Hãy cùng nhau đến Hết-bôn Xây dựng lại thành của Si-hôn! Từ Hết-bôn lửa đã phát ra Ngọn lửa cháy từ thành của Si-hôn Thiêu hủy A-rơ của Mô-áp Là thành ngự trị Ạt-nôn từ trên cao. Hỡi dân Mô-áp, khốn khổ cho ngươi Hỡi dân Kê-mốt, họa diệt vong đã tới Con trai ngươi phải trốn tránh lưu lạc Con gái ngươi phải đọa đày tù rạc Chính vì Si-hôn, vua dân A-mô-rít. Nhưng nay ta lật đổ nó Tiêu hủy Hết-bôn đến tận Đi-bôn, Ta tàn phá nó cho đến Nô-phách Cho đến tận Mê-đê-ba.” Vậy, người Y-sơ-ra-ên chiếm ngụ đất của người A-mô-rít. Môi-se sai người đi trinh sát Gia-ê-xe, và đánh chiếm hết các vùng phụ cận, đuổi người A-mô-rít đi. Sau đó, người Y-sơ-ra-ên quay lại, đi lên hướng Ba-san. Óc, vua Ba-san kéo toàn quân ra chận họ tại Ết-rê-i. CHÚA phán với Môi-se: “Đừng sợ người, vì Ta giao người vào tay con, luôn cả quân dân và đất đai của người nữa. Hãy xử người như con đã xử Si-hôn vua A-mô-rít ở Hết-bôn vậy.” Vậy, người Y-sơ-ra-ên giết Óc, con cái và quân dân của người, không để một ai sống sót, rồi chiếm đóng đất đai của người. Ba-lác Và Ba-la-am Sau đó, người Y-sơ-ra-ên đi đến đồng bằng Mô-áp, và cắm trại bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Ba-lác, con trai Xếp-bô, thấy hết mọi điều Y-sơ-ra-ên làm cho người A-mô-rít. Mô-áp càng kinh hoàng vì thấy người Y-sơ-ra-ên đông đảo quá. Người Mô-áp bàn với các trưởng lão Ma-đi-an: “Đoàn dân này sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ ngoài đồng vậy.” Vậy, Ba-lác con Xếp-bô, vua Mô-áp, gửi các sứ giả đi triệu Ba-la-am con trai Bê-ô, ông này đang sống ở quê mình là Phê-thô-rơ, bên bờ sông, nói rằng: “Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất, đang đóng bên chúng tôi. Bây giờ xin ông đến nguyền rủa họ, vì họ mạnh hơn chúng tôi; và như thế, có lẽ chúng tôi sẽ đuổi họ ra khỏi đất này được. Vì tôi biết rằng ai được ông chúc phước sẽ được phước, ai bị ông nguyền rủa sẽ bị họa.” Các trưởng lão Mô-áp và Ma-đi-an ra đi, mang theo lễ vật bói toán. Gặp Ba-la-am, họ trình bày mọi điều Ba-lác dặn. Ba-la-am bảo họ: “Xin các ông nghỉ lại đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo điều CHÚA sẽ phán dạy tôi.” Vậy các trưởng lão Mô-áp ở lại. CHÚA đến, hỏi Ba-la-am: “Họ là ai?” Ba-la-am thưa: “Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp sai những người này đến nói rằng: ‘Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất. Hãy đến nguyền rủa họ cho tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ đánh đuổi họ đi được.’ ” Nhưng Đức Chúa Trời bảo Ba-la-am: “Đừng đi với họ. Ngươi không được nguyền rủa dân ấy vì họ được chúc phước.” Sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy nói với các sứ giả của Ba-lác: “Xin các ông về xứ mình đi, vì CHÚA không cho tôi đi với các ông.” Các sứ giả Mô-áp trở về, thưa với Ba-lác: “Ba-la-am từ khước, không chịu đi với chúng tôi.” Ba-lác gửi một số sứ giả khác đông hơn, và gồm những người được trọng vọng hơn những người trước. Họ đến nói với Ba-la-am: “Ba-lác con Xếp-bô nói: ‘Xin ông đừng từ chối đến gặp tôi. Tôi hứa sẽ trọng đãi ông tột bực, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, xin ông đến nguyền rủa dân này cho tôi.’ ” Nhưng Ba-la-am đáp lời họ: “Dù Ba-lác có cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể trái lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi để làm một việc, dù lớn hay nhỏ. Bây giờ, tôi cũng xin các ông nghỉ lại đây đêm nay, để tôi xem có điều gì CHÚA phán dạy thêm nữa không.” Đêm hôm ấy, Đức Chúa Trời đến và phán với Ba-la-am: “Nếu những người ấy đến mời, thì cứ dậy đi với họ, nhưng ngươi chỉ được làm điều gì Ta bảo.” Con Lừa Của Ba-la-am Ba-la-am dậy sớm, thắng yên lừa, ra đi với các sứ giả Mô-áp. Nhưng việc ông đi làm cho Đức Chúa Trời giận. Thiên sứ của CHÚA đứng trên đường ngăn cản ông. Ba-la-am cưỡi lừa, có hai người đầy tớ đi theo. Khi con lừa thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần, nó đi rẽ xuống ruộng. Ba-la-am đánh nó, bắt nó trở lại trên đường. Thiên sứ CHÚA đến đứng tại một khúc đường giữa hai vườn nho, hai bên đường đều có tường. Lừa thấy thiên sứ CHÚA liền đứng nép mình vào tường, làm kẹt chân Ba-la-am, nên ông lại đánh nó. Thiên sứ CHÚA đi tới đứng tại một nơi rất hẹp, không có chỗ để trở mình phía nào cả. Thấy thiên sứ CHÚA, lừa nằm mọp xuống, Ba-la-am nổi giận lấy gậy đánh nó. CHÚA mở miệng con lừa, nó nói với Ba-la-am: “Tôi có làm gì mà ông đánh tôi đến ba lần?” Ba-la-am đáp: “Vì mày sỉ nhục ta. Nếu có kiếm trong tay, ta đã giết mày rồi.” Lừa lại hỏi Ba-la-am: “Tôi có phải là lừa ông vẫn cưỡi từ trước tới nay không? Tôi có thường hành động thế này không?” Ông đáp: “Không.” Bấy giờ, CHÚA mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần. Ông vội cúi đầu, úp mặt xuống đất. Thiên sứ của CHÚA hỏi: “Tại sao ngươi lại đánh con lừa ba lần? Ta đến đây ngăn cản ngươi vì ngươi đi theo con đường tà. Con lừa thấy ta, nên nó tránh ta ba lần. Nếu nó không tránh, ta đã giết ngươi và để cho nó sống.” Ba-la-am nói với thiên sứ của CHÚA: “Tôi đã phạm tội. Tôi đã không biết thiên sứ đứng trên đường để ngăn cản tôi. Nếu thiên sứ không vừa ý, bây giờ tôi xin quay về.” Thiên sứ của CHÚA bảo Ba-la-am: “Cứ đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói lời nào ta bảo ngươi nói.” Vậy Ba-la-am tiếp tục đi với các sứ giả của Ba-lác. Nghe tin Ba-la-am đến, Ba-lác ra tận một thành bên sông Ạt-nôn, ngoài biên giới để tiếp đón. Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Tôi đã khẩn khoản mời sao ông không đến? Tôi không đủ khả năng cho ông được vẻ vang sao?” Ba-la-am đáp: “Bây giờ tôi đã đến đây. Nhưng tôi không có quyền nói gì hết. Tôi chỉ nói những lời Đức Chúa Trời đặt trong miệng tôi.” Và Ba-la-am đi với Ba-lác đến Ki-ri-át Hút-sốt. Ba-lác giết bò, cừu để cúng tế, và sai đem lễ vật cho Ba-la-am và các trưởng lão cùng đi với ông. Sáng hôm sau, Ba-lác đem Ba-la-am lên Ba-mốt Ba-anh là nơi từ đấy Ba-la-am có thể thấy một phần người Y-sơ-ra-ên. Lời Tiên Tri Thứ Nhất Của Ba-la-am Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin xây tại đây bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực và bảy con chiên đực.” Ba-lác làm theo lời Ba-la-am nói, và hai người dâng một con bò và một con chiên trên mỗi bàn thờ. Rồi Ba-la-am lại nói với Ba-lác: “Xin Vua đứng bên tế lễ thiêu mình. Tôi đi đằng này, có lẽ CHÚA sẽ đến cho tôi gặp. Ngài bảo tôi điều gì, tôi sẽ cho vua hay.” Ba-la-am đi lên một ngọn đồi. Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am, và ông thưa: “Tôi có lập bảy cái bàn thờ, trên mỗi cái dâng một con bò và một con chiên.” CHÚA đặt lời trong miệng Ba-la-am, và bảo ông trở về nói với Ba-lác. Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên tế lễ thiêu mình, cùng với các trưởng lão Mô-áp. Ba-la-am nói lời tiên tri như sau: “Ba-lác, vua Mô-áp vời tôi đến từ A-ram, Từ những dãy núi miền Đông. Bảo tôi đến nguyền rủa Gia-cốp, Lăng mạ Y-sơ-ra-ên. Tôi nguyền rủa sao được Người Đức Chúa Trời không nguyền rủa? Tôi lăng mạ sao được Người Đức Chúa Trời không lăng mạ? Từ chót núi tôi thấy họ, Từ đồi cao tôi nhìn họ. Tôi thấy họ, một dân sống riêng rẽ, Không coi mình như một nước thế gian. Ai lường được cát bụi của Gia-cốp? Ai đếm được phần tư dân số Y-sơ-ra-ên? Cho tôi chết cái chết của người công chính, Cho tôi qua đời như họ qua đời!” Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa quân thù, nhưng ông lại đi chúc phước cho họ.” Ông đáp: “Tôi phải nói những lời CHÚA đặt trong miệng tôi.” Lời Tiên Tri Thứ Hai Của Ba-la-am Sau đó, Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông đi với tôi đến một nơi khác, tại đấy ông sẽ thấy họ, nhưng cũng chỉ thấy được một phần dân ấy, và ông sẽ nguyền rủa họ cho tôi.” Rồi Ba-lác dẫn Ba-la-am đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh núi Phích-ga, lập tại đó bảy cái bàn thờ, dâng trên mỗi bàn thờ một con bò và một con chiên. Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin vua đứng đấy, bên tế lễ thiêu mình, còn tôi sẽ đi đến đằng kia gặp CHÚA.” CHÚA gặp Ba-la-am, đặt lời trong miệng ông, và bảo ông trở về nói với Ba-lác. Vậy Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên tế lễ thiêu mình cùng với các trưởng lão Mô-áp, Ba-lác hỏi: “CHÚA phán dạy thế nào?” Ba-la-am nói lời tiên tri: “Hỡi Ba-lác, hãy đứng lên nghe đây, Hỡi con trai của Xếp-bô, hãy lắng tai! Đức Chúa Trời đâu phải loài người để nói dối, Ngài đâu phải con loài người để đổi ý. Có bao giờ Ngài nói mà không làm? Hay hứa mà không thực hiện? Đây, tôi nhận được lệnh chúc phước; Ngài đã chúc phước, tôi không thay đổi được. Trong Gia-cốp, không thấy bất hạnh, Trong Y-sơ-ra-ên không thấy khốn cùng. CHÚA, Đức Chúa Trời ở với họ, Tiếng thét của Vua ở giữa họ. Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập Sức mạnh họ như của bò rừng. Không ai bùa ếm Gia-cốp được, Cũng không ai bói toán nghịch Y-sơ-ra-ên. Vì đây là lúc nói về những việc Đức Chúa Trời đã làm cho Gia-cốp, cho Y-sơ-ra-ên. Họ vươn mình như sư tử cái, Vùng dậy như sư tử đực Chỉ nghỉ ngơi khi đã nuốt xong mồi, Và uống xong máu kẻ bị giết.” Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông không nguyền rủa họ thì thôi cũng đừng chúc phước cho họ nữa.” Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo là tôi chỉ được nói những điều CHÚA dạy tôi.” Lời Tiên Tri Thứ Ba Của Ba-la-am Rồi, Ba-lác lại nói với Ba-la-am: “Để tôi đưa ông đến một nơi khác. Có lẽ lần này Đức Chúa Trời sẽ đồng ý cho ông nguyền rủa họ tại đó.” Và Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh núi Phê-ô, từ đấy nhìn thấy sa mạc. Ba-la-am nói: “Xây bảy bàn thờ và chuẩn bị bảy con bò, bảy con chiên tại đây cho tôi.” Ba-lác làm theo lời Ba-la-am, và dâng một con bò, một con chiên trên mỗi bàn thờ. Bây giờ, Ba-la-am thấy rõ rằng CHÚA muốn chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, nên ông không đi tìm điềm báo như những lần trước, nhưng quay nhìn về hướng sa mạc. Ông thấy các trại quân Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc cắm trại riêng biệt. Được thần Đức Chúa Trời cảm thúc, ông nói tiên tri như sau: “Lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô, Là người có đôi mắt mở ra. Người nghe được lời của Đức Chúa Trời, Thấy được khải tượng của Đức Chúa Trời Dù người ngã, mắt người vẫn mở. Lều của Gia-cốp, Trại của Y-sơ-ra-ên đẹp mắt thật, Như thung lũng chạy dài, Như vườn tược cạnh mé sông, Như cây trầm hương được tay Đức Chúa Trời vun trồng, Như cây bách hương mọc bên dòng nước. Họ sẽ có nước ngọt tràn trề dư dật, Con cháu họ không hề sống nơi khô cạn, Vua họ có uy quyền cao hơn A-gát, Vương quốc họ hùng mạnh thăng tiến. Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập, Họ trở nên dũng mãnh như bò rừng. Họ nuốt tươi các nước cừu địch. Họ nghỉ ngơi như sư tử nằm ngủ, Ai dám đánh thức? Ai chúc phước họ sẽ hưởng hạnh phúc; Ai nguyền rủa họ sẽ bị tai ương!” Đến đây, Ba-lác không ngăn được cơn giận, hai tay đập vào nhau, lên tiếng quở trách Ba-la-am: “Ta gọi ông đến để nguyền rủa kẻ thù cho ta, ông lại đi chúc phước họ ba lần. Thôi ông về đi! Ta có hứa làm cho ông được vẻ vang nhưng CHÚA đã không cho ông hưởng vinh dự.” Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo sứ giả của bệ hạ là dù đức vua có cho tôi cung điện đầy vàng bạc, tôi cũng không tự mình làm điều gì được cả, CHÚA bảo tôi nói gì, tôi phải nói đúng như vậy. Bây giờ, trước khi tôi về, tôi xin nói trước những điều Y-sơ-ra-ên sẽ làm cho thần dân bệ hạ.” Và Ba-la-am tiếp: “Lời tiên tri của Ba-la-am, con trai Bê-ô Là người có đôi mắt mở ra. Người nghe được lời của Đức Chúa Trời, Nhận thức được cao kiến của Đấng Tối Cao, Thấy được khải tượng của Đức Chúa Trời, Dù người ngã, mắt người vẫn mở. Điều tôi thấy chưa xảy ra ngay, Việc tôi nhìn chưa đến gần. Một ngôi sao xuất phát từ nhà Gia-cốp, Một cây trượng đến từ Y-sơ-ra-ên. Vị vua Y-sơ-ra-ên này sẽ đánh Mô-áp tan tành, Tận diệt dòng dõi loạn lạc. Y-sơ-ra-ên sẽ biểu dương lực lượng, Chiếm Ê-đôm và Sê-i-rơ. Đức Vua uy quyền xuất phát từ nhà Gia-cốp này, Sẽ tiêu diệt những người sống sót trong các thành thị.” Lời Tiên Tri Chót Của Ba-la-am Sau đó, Ba-la-am nhìn thấy A-ma-léc, ông nói lời tiên tri sau đây: “A-ma-léc đứng đầu các quốc gia, Nhưng cuối cùng sẽ bị diệt vong.” Khi nhìn thấy người Kên, ông nói: “Nơi ngươi ở thật an toàn, Như tổ lót trên tảng đá: Thế nhưng Kên sẽ bị tàn phá Khi A-sua bắt ngươi lưu đày.” Ông kết thúc lời tiên tri mình như sau: “Ôi! Khi Đức Chúa Trời thực hiện những điều này, còn ai sống nổi? Tàu biển sẽ đến từ bờ biển Kít-tim Làm cho A-sua và Hê-be khốn đốn, Rồi chính họ cũng bị tiêu hủy.” Ba-la-am đứng dậy, đi về nhà, Ba-lác cũng lên đường. Mô-áp Quyến Rũ Y-sơ-ra-ên Trong khi người Y-sơ-ra-ên ở lại Si-tim, một số người tà dâm với các phụ nữ Mô-áp. Các phụ nữ mời họ dự các buổi dâng sinh tế cho thần mình, họ ăn uống và quỳ lạy các thần ấy. Vậy Y-sơ-ra-ên tham dự vào việc cúng thần Ba-anh Phê-ô. Và CHÚA nổi giận. CHÚA phán bảo Môi-se: “Bắt các nhà lãnh đạo dân chúng, treo họ trước mặt CHÚA, dưới ánh nắng, để cơn giận Ta nguôi đi.” Môi-se ra lệnh cho các thẩm phán Y-sơ-ra-ên: “Các anh phải xử tử tất cả những người nào ở dưới quyền mình mà đã tham dự vào việc thờ Ba-anh Phê-ô.” Có một người Y-sơ-ra-ên đem một phụ nữ Ma-đi-an về nhà, ngay trước mặt Môi-se và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ đang khóc lóc trước cửa Trại Hội Kiến. Thấy thế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, liền rời hội chúng đi lấy một cây giáo, chạy theo người kia vào trong trại, đâm xuyên qua cả hai người, xuyên người đàn ông Y-sơ-ra-ên và bụng người đàn bà. Tai họa liền chấm dứt. Số người chết trong tai họa này lên đến hai mươi bốn ngàn người. CHÚA phán bảo Môi-se: “Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, đã cứu Y-sơ-ra-ên thoát khỏi cơn giận Ta, người đã vì Ta nhiệt tâm đố kỵ tà thần, nên Ta không diệt Y-sơ-ra-ên bất trung. Vậy con cho người hay, Ta lập giao ước hòa bình với người, là giao ước với người và con cháu người, họ sẽ giữ chức tế lễ mãi mãi, vì người đã nhiệt tâm với Ta, Đức Chúa Trời người, và chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên.” Tên của người Y-sơ-ra-ên bị giết chung với phụ nữ Ma-đi-an là Xim-ri, con trai Sa-lu, đứng đầu một họ trong bộ tộc Si-mê-ôn, và tên của người phụ nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi, con Xu-rơ, trưởng một bộ tộc trong Ma-đi-an. CHÚA phán bảo Môi-se: “Hãy coi người Ma-đi-an là kẻ thù và đánh giết họ, vì họ đã coi các ngươi là thù nghịch khi dùng mưu kế dụ dỗ các ngươi thờ Phê-ô. Cốt-bi là con gái một nhà lãnh đạo Ma-đi-an, người phụ nữ bị giết trong ngày tai họa, và tai họa này xảy ra vì việc cúng thờ Phê-ô.” Cuộc Kiểm Tra Dân Số Thứ Hai Sau tai họa ấy, CHÚA phán bảo Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn: “Kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận được.” Vậy, tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh ấy cho dân: “Kiểm tra những người từ hai mươi tuổi trở lên, như CHÚA đã phán dặn Môi-se.” Đây là dân số Y-sơ-ra-ên, những người ra từ Ai-cập: Con cháu Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, Từ Hê-nóc sinh ra gia tộc Hê-nóc, Từ Pha-lu sinh ra gia tộc Pha-lu, Từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn, Từ Cạt-mi sinh ra gia tộc Cạt-mi. Đó là các gia tộc thuộc bộ tộc Ru-bên, có 43,730 người. Con trai Pha-lu là Ê-li-áp. Các con trai Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này là hai người lãnh đạo của dân, đã theo Cô-rê nổi loạn chống Môi-se, A-rôn và cả CHÚA nữa. Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê, còn 250 người theo họ bị lửa thiêu chết. Việc này xảy ra để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, con cháu Cô-rê không bị tuyệt diệt. Con cháu Si-mê-ôn, tính từng gia tộc: Từ Nê-mu-ên sinh ra gia tộc Nê-mu-ên, từ Gia-min sinh ra gia tộc Gia-min, từ Gia-kin sinh ra gia tộc Gia-kin, từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách, từ Sau-lơ sinh ra gia tộc Sau-lơ. Đó là các gia tộc của bộ tộc Si-mê-ôn, có 22,200 người. Con cháu Gát, tính từng gia tộc: Từ Xê-phôn sinh ra gia tộc Xê-phôn, từ Ha-ghi sinh ra gia tộc Ha-ghi, từ Su-ni sinh ra gia tộc Su-ni, từ Óc-ni sinh ra gia tộc Óc-ni, từ Ê-ri sinh ra gia tộc Ê-ri, từ A-rốt sinh ra gia tộc A-rốt, từ A-rê-li sinh ra gia tộc A-rê-li. Đó là các gia tộc của bộ tộc Gát, có 40,500 người. Có hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã qua đời tại Ca-na-an. Con cháu Giu-đa, tính từng gia tộc: Từ Sê-la sinh ra gia tộc Sê-la, từ Phê-rết sinh ra gia tộc Phê-rết, từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách, từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn, từ Ha-mun sinh ra gia tộc Ha-mun. Hết-rôn và Ha-num là con Phê-rết. Đó là các gia tộc của bộ tộc Giu-đa, có 76,500 người. Con cháu Y-sa-ca, tính từng gia tộc: Từ Thô-la sinh ra gia tộc Thô-la, từ Phu-va sinh ra gia tộc Phu-va, từ Gia-súp sinh ra gia tộc Gia-súp, từ Sim-rôn sinh ra gia tộc Sim-rôn. Đó là các gia tộc của bộ tộc Y-sa-ca, có 64,300 người. Con cháu Sa-bu-luân, tính từng gia tộc: Từ Sê-rết sinh ra gia tộc Sê-rết, từ Ê-lôn sinh ra gia tộc Ê-lôn, từ Gia-lê-ên sinh ra gia tộc Gia-lê-ên. Đó là các gia tộc của bộ tộc Sa-bu-luân, có 60,500 người. Con cháu Giô-sép tính từng bộ tộc, có Ma-na-se và Ép-ra-im: Con cháu Ma-na-se: Từ Ma-ki sinh ra gia tộc Ma-ki, từ Ga-la-át (con Ma-ki) sinh ra gia tộc Ga-la-át, các người của Ga-la-át là: từ Giê-xe sinh ra gia tộc Giê-xe, từ Hê-léc sinh ra gia tộc Hê-léc, từ Ách-ri-ên sinh ra gia tộc Ách-ri-ên, từ Si-chem sinh ra gia tộc Si-chem, Từ Sê-mi-đa sinh ra gia tộc Sê-mi-đa, từ Hê-phê sinh ra gia tộc Hê-phê. (Xê-lô-phát, con trai Hê-phê, không có con trai. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa). Đó là các gia tộc của bộ tộc Ma-na-se, có 52,700 người. Con cháu Ép-ra-im: Từ Su-thê-lách sinh ra gia tộc Su-thê-lách, từ Bê-ka sinh ra gia tộc Bê-ka, từ Tha-chan sinh ra gia tộc Tha-chan. Con của Su-thê-lách là Ê-ran, từ Ê-ran sinh ra gia tộc Ê-ran. Đó là các gia tộc của bộ tộc Ép-ra-im, có 32,500 người. Các gia tộc thuộc hai bộ tộc trên đều là con cháu Giô-sép. Con cháu Bên-gia-min, tính từng gia tộc: Từ Bê-la sinh ra gia tộc Bê-la, từ Ách-bên sinh ra gia tộc Ách-bên, từ A-chi-ram sinh ra gia tộc A-chi-ram, từ Sê-phu-pham sinh ra gia tộc Sê-phu-pham, từ Hu-pham sinh ra gia tộc Hu-pham. Các người của Bê-la là A-rết và Na-a-man, từ A-rết sinh ra gia tộc A-rết, từ Na-a-man sinh ra gia tộc Na-a-man. Đó là các gia tộc của bộ tộc Bên-gia-min, có 45,600 người. Con cháu Đan, tính từng gia tộc: Từ Su-cham sinh ra gia tộc Su-cham. Bộ tộc Đan chỉ có một gia tộc, bộ tộc Su-cham có 64,400 người. Con cháu A-se, tính từng gia tộc: từ Im-na sinh ra gia tộc Im-na, từ Ích-vi sinh ra gia tộc Ích-vi, từ Bê-ri-a sinh ra gia tộc Bê-ri-a. Các người của Bê-ri-a: Từ Hê-be sinh ra gia tộc Hê-be, từ Manh-ki-ên sinh ra gia tộc Manh-ki-ên. (A-se có một con gái tên là Sê-rách). Đó là các gia tộc của bộ tộc A-se, có 53,400 người. Con cháu Nép-ta-li tính từng gia tộc: Từ Giát-sê-ên sinh ra gia tộc Giát-sê-ên, từ Gu-ni sinh ra gia tộc Gu-ni, từ Giê-se sinh ra gia tộc Giê-se, từ Si-lem sinh ra gia tộc Si-lem. Đó là các gia tộc của bộ tộc Nép-ta-li, có 45,400 người. Vậy trong Y-sơ-ra-ên, tổng số người được kiểm tra là 601,730 người. CHÚA phán bảo Môi-se: “Đất sẽ được chia cho họ làm cơ nghiệp căn cứ trên dân số. Bộ tộc đông dân sẽ được nhiều đất, bộ tộc ít dân sẽ được ít đất. Mỗi bộ tộc sẽ nhận được đất tùy theo dân số kiểm tra. Người ta sẽ dùng lối bốc thăm chia đất, mỗi phần mang tên một bộ tộc. Cơ nghiệp của họ sẽ được bắt thăm giữa những bộ tộc đông dân và những bộ tộc ít dân.” Người Lê-vi cũng được kiểm tra, tính từng gia tộc: Từ Ghẹt-sôn sinh ra gia tộc Ghẹt-sôn, từ Kê-hát sinh ra gia tộc Kê-hát, từ Mê-ra-ri sinh ra gia tộc Mê-ra-ri. Các gia tộc khác thuộc bộ tộc Lê-vi là: gia tộc Líp-ni, gia tộc Hếp-rôn, gia tộc Mách-li, gia tộc Mu-si, gia tộc Cô-rê. (Kê-hát sinh Am-ram. Lê-vi lúc còn ở Ai-cập sinh ra một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram cưới Giô-kê-bết sinh A-rôn, Môi-se và một người con gái tên là Mi-ri-am. A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt CHÚA). Tổng số người nam thuộc bộ tộc Lê-vi, từ một tháng trở lên, là 23,000 người. Họ không được kiểm tra. Đó là cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên do Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Không một ai trong số những người này có tên trong kỳ kiểm tra lần trước do Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thực hiện trong sa mạc Si-nai. CHÚA có phán về những người trước rằng: “Họ phải chết trong sa mạc”, nên không còn một ai sống sót, trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun. Các Con Gái Của Xê-lô-phát Xê-lô-phát có năm người con gái: Mách-la, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. (Xê-lô-phát là con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se, thuộc bộ tộc Ma-na-se. Ma-na-se là con Giô-sép). Các cô đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể dân chúng hiện diện tại cửa Trại Hội Kiến, nói: “Cha chúng tôi qua đời trong sa mạc, không phải vì theo bè đảng Cô-rê phản nghịch CHÚA, nhưng chết vì tội lỗi mình, và không có con trai. Chỉ vì không có con trai nên cha tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Vậy, xin cho chúng tôi lãnh phần cơ nghiệp cùng với các chú các bác chúng tôi.” Môi-se trình vụ này lên cho CHÚA. CHÚA phán dạy ông: “Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy chia cho họ một phần đất làm cơ nghiệp cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ chia cho cha họ. Con cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên, nếu có ai chết mà không có con trai, hãy chia phần cho con gái người ấy. Nếu người ấy không có con gái, giao phần cơ nghiệp cho anh em người ấy. Nếu không có anh em, giao cho chú bác. Nếu không có chú bác, giao phần cơ nghiệp cho người bà con gần nhất.” Đây là một luật áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên, đúng như CHÚA phán dạy Môi-se. Giô-suê Kế Nghiệp Môi-se Sau đó, CHÚA phán với Môi-se: “Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho Y-sơ-ra-ên. Xem xong, con cũng sẽ về cùng tổ tiên như A-rôn, anh con vậy. Vì trong sa mạc Xin, hai con đã không vâng lệnh Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân chúng khi họ chống cự về việc nước.” (Đây là “nước Mê-ri-ba” ở Ca-đê, trong sa mạc Xin.) Môi-se thưa với CHÚA: “Lạy CHÚA là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người lãnh đạo dân chúng, một người ở giữa họ để dẫn họ ra, đem họ vào, cho dân của CHÚA không như cừu chẳng có người chăn.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Chọn Giô-suê, con trai Nun là người có thần trong mình. Con sẽ đặt tay trên người. Con sẽ dẫn người đến đứng trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. Trước mặt họ, con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người. Con trao quyền cho người và như thế, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ vâng lệnh người. Người đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ dùng bảng U-rim thỉnh cầu quyết định của CHÚA. Người và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên phải tuân hành lệnh Chúa trong mọi việc, việc đi ra cũng như đi vào.” Môi-se làm đúng như lời CHÚA phán dặn, đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. Ông đặt tay trên Giô-suê và ủy thác trách nhiệm cho người, như CHÚA đã dạy ông. Tế Lễ Hằng Ngày CHÚA phán bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lệnh này: “Phải cẩn thận dâng lên ta đúng kỳ hạn các lễ vật thức ăn dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng Ta.” Con bảo họ: “Đây là lễ thiêu dùng lửa dâng lên CHÚA: Mỗi ngày dâng tế lễ toàn thiêu thường xuyên, gồm hai chiên đực một tuổi không tì vết. Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối, cùng với lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn28:5 Nt: 1 kg trộn với một phần tư hin dầu ô-liu giã bằng cối.28:5 Nt: 1 lít Đây là tế lễ thiêu thường xuyên đã được ấn định tại núi Si-nai, là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Cũng dâng chung với chiên một lễ tưới rượu, gồm một phần tư hin rượu; đổ rượu ra trên bàn thờ trước mặt CHÚA. Vào lúc chiều tối cũng dâng một con chiên cùng với lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu giống như lễ buổi sáng. Đây là tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Tế Lễ Ngày Sa-bát Mỗi ngày Sa-bát, dâng tế lễ thiêu gồm hai con chiên đực một tuổi, không tì vết, cùng với lễ tưới rượu và lễ dâng ngũ cốc, gồm hai phần mười ê-pha28:9 2 kg bột mì mịn trộn với dầu. Đây là tế lễ thiêu dâng ngày Sa-bát, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu. Tế Lễ Hằng Tháng Mỗi đầu tháng, dâng tế lễ thiêu cho CHÚA gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Lễ vật ngũ cốc gồm bột mì trộn với dầu: dâng ba phần mười ê-pha28:12 3 kg chung với mỗi con bò, hai phần mười ê-pha28:12 2kg chung với mỗi con chiên đực và một phần mười ê-pha chung với mỗi con chiên con. Đây là tế lễ toàn thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Với con chiên đực, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn. Đây là tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ tưới rượu gồm một nửa hin28:14 2 lít rượu. Với con chiên đực, dâng một phần tư hin rượu. Với mỗi con chiên con, một phần tư hin rượu. Đây là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm. Ngoài tế lễ thiêu dâng thường xuyên hằng ngày với lễ tưới rượu, dâng lên CHÚA một con dê đực để làm tế lễ chuộc tội. Lễ Vượt Qua Hãy giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA vào ngày mười bốn tháng giêng. Từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ, ăn bánh không men trong bảy ngày. Vào ngày thứ nhất, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA và không ai được làm việc hằng ngày của mình. Dâng cho CHÚA một tế lễ thiêu, lễ vật gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Đấy là các lễ vật phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên vào buổi sáng. Trong bảy ngày, mỗi ngày đều phải dâng tế lễ thiêu như thế, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Các lễ vật đó được dâng ngoài các tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ tưới rượu. Vào ngày thứ bảy cũng phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Lễ Các Tuần Vào ngày hoa quả đầu mùa, ngày thứ nhất trong lễ Các Tuần, khi dâng lên CHÚA ngũ cốc mới thu hoạch, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc thường ngày của mình. Dâng hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Các lễ vật này cùng với các lễ tưới rượu phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên, lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu. Phải dâng những sinh vật không tì vết. Lễ Thổi Kèn Vào ngày mồng một tháng bảy, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Ngày ấy sẽ là ngày thổi kèn. Tế lễ thiêu dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với con bò, dâng lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con cừu đực, hai phần ba ê-pha. Với mỗi con chiên con, một phần ba ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Các lễ vật này dâng ngoài tế lễ thiêu dâng hằng tháng cùng lễ vật ngũ cốc, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu như đã quy định. Đấy là những lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Ngày Chuộc Tội Ngày mồng mười tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Mọi người phải kiêng ăn,29:7 Nt: hạ mình và không được làm việc gì hết. Tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. Với mỗi con chiên con, một phần mười ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng thêm vào với tế lễ chuộc tội dâng trong ngày chuộc tội, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu. Lễ Lều Tạm Ngày rằm tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Dân chúng sẽ giữ lễ bảy ngày cho CHÚA. Tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm mười ba con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với mỗi con bò, dâng một lễ ngũ cốc29:14 Ctd: kiêng ăn gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với mỗi con chiên đực, hai phần mười ê-pha. Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ hai, dâng mười hai con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ ba, dâng mười một con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ tư, dâng mười con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ năm, dâng chín con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ sáu, dâng tám con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ bảy, dâng bảy con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu. Vào ngày thứ tám, sẽ có một cuộc hội họp thánh, không ai được làm việc gì cả. Tế lễ thiêu có mùi thơm dâng CHÚA gồm một con bò đực, một con cừu đực và bảy con cừu đực một tuổi, không tì vết. Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu. Đấy là các lễ vật dâng cho CHÚA trong các ngày lễ ấn định, gồm tế lễ thiêu, lễ dâng ngũ cốc, lễ tưới rượu và tế lễ cầu an mà các con dâng để giữ trọn lời hứa nguyện hoặc dâng cách tình nguyện.” Môi-se truyền lại cho người Y-sơ-ra-ên mọi điều CHÚA phán bảo. Hứa Nguyện Môi-se nói với các nhà lãnh đạo các bộ tộc Y-sơ-ra-ên: “Đây là những điều CHÚA có phán dạy: ‘Nếu một người hứa nguyện với CHÚA điều gì hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, người ấy không được trái lời, phải làm theo lời mình đã nói. Khi một thiếu nữ còn sống trong nhà cha mình có lời hứa nguyện với CHÚA hoặc thề nguyện điều gì, và khi người cha nghe được lời thề của con mình nhưng không nói gì cả; tất cả lời thề đó vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người cha cấm con gái mình ngay trong ngày người ấy biết được; không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì bị cha mình cấm đoán. Nếu thiếu nữ lấy chồng sau khi đã có lời hứa nguyện hoặc đã buột miệng thề một điều gì, và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói gì cả; lời thề vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người chồng cấm vợ mình ngay trong ngày người ấy biết được; người chồng đã hủy bỏ hiệu lực lời hứa nguyện, lời thề của vợ mình vì buột miệng nói ra. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng. Lời thề của một bà góa hoặc một bà ly dị có hiệu lực. Nếu trong khi đang sống trong nhà chồng, một người đàn bà hứa nguyện hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói năng cấm đoán gì cả; tất cả lời thề vẫn còn có hiệu lực. Nhưng nếu người chồng hủy bỏ lời thề ngay trong ngày mình biết được, không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì chồng nàng hủy bỏ. Vậy, người chồng có quyền xác nhận hay hủy bỏ lời hứa nguyện hoặc lời thề nguyền của vợ mình. Nhưng nếu người chồng không nói gì trong một ngày tròn, tức là đã xác nhận lời thề của vợ mình. Người chồng xác nhận bằng sự yên lặng, dù đã biết được lời thề ấy. Nếu người chồng biết được, nhưng đợi một thời gian mới hủy bỏ lời thề, người chồng phải gánh chịu trách nhiệm về lỗi vợ mình mắc phải.’ ” Đấy là những quy tắc CHÚA truyền cho Môi-se về mối liên hệ giữa vợ chồng, cha con khi người con gái còn sống trong nhà cha mình. Báo Thù Người Ma-đi-an CHÚA phán bảo Môi-se: “Hãy báo thù người Ma-đi-an cho Y-sơ-ra-ên. Rồi con sẽ được về cùng tổ tiên.” Vậy, Môi-se bảo dân: “Vũ trang một số dân chúng để đi đánh dân Ma-đi-an, thi hành lệnh báo thù của CHÚA. Mỗi bộ tộc sẽ gửi 1,000 quân ra trận.” Như vậy, trong Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc chọn 1,000 người, 12,000 người được vũ trang để ra trận. Môi-se ra lệnh xuất quân, một ngàn quân mỗi bộ tộc, cùng với Phi-nê-a, con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, đem theo các dụng cụ thánh và cầm kèn đồng thổi báo hiệu. Họ tấn công Ma-đi-an theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se, giết tất cả những người đàn ông, kể cả năm vua Ma-đi-an là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Ba-la-am, con trai Bê-ô cũng bị chém chết. Người Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà, trẻ con Ma-đi-an, thu chiến lợi phẩm gồm bò, cừu và của cải. Họ đốt hết các thành, trang trại của người Ma-đi-an. Họ lấy các chiến lợi phẩm, người và súc vật, đem tất cả người đã bắt được và của cải đã thu được về cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và dân chúng Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và tất cả các nhà lãnh đạo hội chúng dân chúng đi ra bên ngoài trại đón họ. Môi-se giận các sĩ quan chỉ huy quân đội lắm, những người chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân, vừa từ chiến trường về. Ông hỏi họ: “Tại sao các ông tha chết cho những người đàn bà này? Họ chính là những người theo mưu của Ba-la-am, dụ dỗ người Y-sơ-ra-ên từ bỏ CHÚA, cúng thờ Phê-ô, và vì thế dân CHÚA bị tai họa. Bây giờ, phải giết hết những đứa con trai và những người đàn bà đã nằm với đàn ông. Nhưng tha chết cho các trinh nữ, và có thể giữ họ cho mình. Còn những ai đã giết người hoặc đụng vào xác chết, phải ở lại bên ngoài trại bảy ngày. Vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, phải tẩy uế mình và người mình bắt được. Cũng phải tẩy sạch quần áo, đồ dùng bằng da, bằng lông dê và bằng gỗ.” Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ: “Đây là quy tắc CHÚA đã truyền cho Môi-se: Vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì và bất cứ vật gì không cháy, phải đưa vào lửa đốt; và cũng phải dùng nước tẩy uế cho sạch các vật ấy nữa. Còn vật gì không chịu được lửa thì chỉ cần tẩy cho sạch bằng nước tẩy uế. Vào ngày thứ bảy, sau khi giặt quần áo, anh em sẽ được sạch và được vào trại.” Chia Chiến Lợi Phẩm CHÚA phán bảo với Môi-se: “Con sẽ cùng thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các bộ tộc trưởng kiểm kê các chiến lợi phẩm, cả người lẫn súc vật. Rồi đem chia các chiến lợi phẩm ra làm hai phần, một phần thuộc về các chiến sĩ đã ra trận, phần kia thuộc về dân chúng. Trong phần của các chiến sĩ, phải lấy một phần năm trăm đem dâng cho Chúa, dù là người, bò, lừa hay cừu. Đem phần thu được để dâng cho CHÚA, giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Trong phần của dân chúng, lấy một phần năm mươi, dù là người, bò, lừa, cừu hay súc vật gì khác, giao cho người Lê-vi, là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA.” Vậy, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm theo mọi điều CHÚA phán dạy Môi-se. Số chiến lợi phẩm do các chiến sĩ thu được gồm có 675,000 con chiên, 72,000 con bò, 61,000 con lừa và 32,000 trinh nữ. Vậy, phân nửa thuộc các chiến sĩ gồm: 337,500 Con chiên, Dâng cho CHÚA 675 con; 36,000 Con bò, dâng cho CHÚA 72 con; 30,500 Con lừa, dâng cho CHÚA 61 con; 16,000 Người, dâng cho CHÚA 32 người. Môi-se giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phần dâng cho CHÚA, như CHÚA đã dặn ông. Phân nửa thuộc phần dân Y-sơ-ra-ên được Môi-se chia cho (phân nửa kia thuộc các chiến sĩ, phân nửa này thuộc về dân chúng), gồm 337,500 con chiên, 36,000 con bò, 30,500 con lừa và 16,000 người. Môi-se lấy một phần năm mươi trong số chiến lợi phẩm thuộc dân chúng, cả người lẫn súc vật, giao cho người Lê-vi là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA, như CHÚA đã dặn ông. Các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân sĩ đến gặp Môi-se, nói: “Chúng tôi, là các đầy tớ của ông, có kiểm điểm quân số, và thấy không thiếu một ai cả. Chúng tôi cũng có mang đến các nữ trang bằng vàng đã thu được: băng đeo tay, xuyến, nhẫn, hoa tai và dây chuyền. Chúng tôi xin dâng cho CHÚA để làm lễ chuộc tội.” Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng. Tổng số vàng do các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm dâng cho CHÚA là mười sáu ngàn bảy trăm năm mươi sê-ken.31:52 200 kg Các chiến sĩ đều có thu chiến lợi phẩm riêng cho mình. Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng từ tay các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm, rồi đem để vào Trại Hội Kiến, để CHÚA luôn nhớ đến Y-sơ-ra-ên. Người Ru-bên Và Gát Lãnh Xứ Ga-la-át Người của hai bộ tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật. Khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là nơi thích hợp cho việc chăn nuôi, họ đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo dân chúng, nói: “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sê, Sê-ham, Nê-ô và Bê-ôn, các miền CHÚA đã chinh phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, rất thuận lợi cho việc chăn nuôi, và chúng tôi lại có nhiều gia súc. Nếu chúng tôi được quý ông thương tình, xin cho chúng tôi đất này làm sản nghiệp, không cần phải đi qua sông Giô-đanh.” Môi-se hỏi người Gát và Ru-bên: “Anh em muốn ngồi đây trong khi anh chị em khác đi chiến đấu sao? Sao anh em làm cho anh chị em Y-sơ-ra-ên nản lòng, không muốn đi vào đất CHÚA đã cho họ? Tại Ca-đê Ba-nê-a, cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy khi tôi sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Sau khi đến thung lũng Ếch-côn nhìn thấy xứ, họ làm cho người Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà CHÚA đã cho họ. Ngày ấy, CHÚA nổi giận, thề rằng: ‘Trong những người ra đi từ Ai-cập, không một ai từ hai mươi tuổi trở lên được thấy xứ mà Ta đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ đã không hết lòng theo Ta; ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai Nun, vì họ hết lòng theo Ta.’ CHÚA giận Y-sơ-ra-ên nên Ngài bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi thế hệ làm điều tà ác trước mắt Chúa chết hết. Và bây giờ, anh em là dòng giống của những người tội lỗi lại nổi lên, thay cho cha ông mình, làm cho CHÚA thêm giận Y-sơ-ra-ên. Nếu anh em từ bỏ CHÚA, Ngài sẽ để cho toàn dân ở lại trong sa mạc, và chính anh em là nguyên do làm cho dân tộc bị tiêu diệt.” Nhưng họ đến gần Môi-se, nói: “Chúng tôi chỉ xin dựng chuồng cho bầy súc vật và xây thành cho con cái chúng tôi ở đây. Còn chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân, cho đến khi mọi người đã vào đất mình. Trong khi đó gia đình chúng tôi được sống an toàn trong thành lũy kiên cố, không bị dân địa phương làm hại. Chúng tôi sẽ không về nhà cho đến khi nào mọi người Y-sơ-ra-ên khác đều nhận được cơ nghiệp mình. Vì chúng tôi đã nhận phần cơ nghiệp bên bờ phía đông sông Giô-đanh, nên sẽ không có phần gì với những người khác bên kia sông cả.” Bấy giờ, Môi-se bảo họ: “Nếu anh em làm đúng như thế, nếu anh em mang vũ khí ra trận trước mặt CHÚA, nếu mọi người cầm vũ khí đi qua sông Giô-đanh trước mặt CHÚA, cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi, thì khi CHÚA đã chinh phục xong lãnh thổ, anh em mới được về, và mới được miễn trách nhiệm với CHÚA và với Y-sơ-ra-ên. Và trước mặt CHÚA, đất này lúc đó sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh em. Nhưng nếu anh em không làm đúng như thế, anh em sẽ mắc tội với CHÚA, và nhớ rằng tội này sẽ kết buộc anh em. Bây giờ, hãy xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy súc vật, nhưng anh em phải nhớ làm điều mình đã hứa.” Người Gát và Ru-bên đáp lời Môi-se: “Các tôi tớ ông xin làm đúng như lời Chúa tôi dặn bảo. Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành của đất Ga-la-át. Còn các tôi tớ ông, tất cả những người được vũ trang để chiến đấu, sẽ qua sông để ra trận trước mặt CHÚA, như chúa tôi đã nói.” Sau đó, Môi-se chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên về việc này. Ông nói: “Nếu tất cả những người được vũ trang để chiến đấu của bộ tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đanh với các ông trước mặt CHÚA, thì khi lãnh thổ đã bình định xong, các ông sẽ cho họ đất Ga-la-át làm cơ nghiệp. Nhưng nếu họ không đi qua cùng với các ông để chiến đấu, họ phải nhận phần cơ nghiệp chung với các ông trong xứ Ca-na-an.” Người Gát và Ru-bên nói: “Điều CHÚA truyền dạy, các tôi tớ ông xin tuân hành! Chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước mặt CHÚA, nhưng đất chúng tôi nhận làm cơ nghiệp sẽ ở bên này sông Giô-đanh.” Vậy, Môi-se cấp cho bộ tộc Gát, bộ tộc Ru-bên và phân nửa bộ tộc Ma-na-se (con Giô-sép) đất của Si-hôn vua A-mô-rít và của Óc vua Ba-san, toàn lãnh thổ với các thành thị và thôn ấp chung quanh. Người Gát xây cất Đi-hôn, A-ta-rốt, A-rô-e, Ạt-rốt Sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha, Bết Nim-ra và Bết Ha-ran là những thành có hào lũy kiên cố. Họ cũng dựng chuồng cho bầy gia súc. Người Ru-bên cất tại Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-tha-im, Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn (những tên này bị đổi), và Síp-ma. Họ đặt tên mới cho các thành vừa tái thiết. Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đi đánh chiếm Ga-la-át, đuổi người A-mô-rít đi. Vậy Môi-se cấp cho con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đất Ga-la-át, và họ sinh sống tại đó. Giai-rơ (con Ma-na-se) đi chiếm một số thôn ấp, đặt tên là thôn Giai-rơ. Nô-bách chiếm Kê-nát và các thôn ấp chung quanh, rồi đặt tên là Nô-bách (theo tên mình). Lộ trình và các địa điểm hạ trại từ Ai-cập đến Giô-đanh. Đây là các địa điểm dân Y-sơ-ra-ên hạ trại sau khi rời Ai-cập tiến lên theo hàng ngũ dưới quyền chỉ huy của Môi-se và A-rôn. Môi-se vâng lịnh CHÚA ghi chép cuộc hành trình của dân chúng theo thứ tự các địa điểm hạ trại. Đây là các chặng đường: dân Y-sơ-ra-ên từ Ram-se lên đường ngày mười lăm tháng giêng, một ngày sau Lễ Vượt Qua, họ anh dũng kéo ra trước mắt toàn dân Ai-cập. Dân ấy đang chôn cất các con trai đầu lòng mà CHÚA đã đánh hạ, vì CHÚA đã đoán phạt các thần của họ. Sau khi bỏ Ram-se, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại Su-cốt; rời Su-cốt và hạ trại tại Ê-tam; nơi giáp ranh sa mạc; rời Ê-tam quay lại Phi Ha-hi-rốt, phía đông Ba-an Sê-phôn, và hạ trại tại Mích-đôn. Họ rời Phi Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển mà vào sa mạc; đi được ba ngày trong sa mạc Ê-tam, họ hạ trại tại Ma-ra. Rời Ma-ra họ đến Ê-lim; là nơi có mười hai dòng suối và bảy mươi cây chà là và hạ trại tại đó. Rời Ê-lim, họ hạ trại bên bờ Hồng-hải; rời bờ Hồng Hải họ đóng trại trong sa mạc Sin. Rời sa mạc Sin họ đóng trại tại Đáp-ca. Rời Đáp-ca họ hạ trại tại A-lúc. Rời A-lúc họ hạ trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước ngọt cho người ta uống. Rời Rê-phi-đim họ hạ trại trong sa mạc Si-nai. Rời sa mạc Si-nai họ hạ trại tại Kíp-rốt-Ha-tha-va. Rời Kíp-rốt Ha-tha-va họ hạ trại tại Hát-sê-rốt. Rời Hát-sê-rốt họ hạ trại tại Rít-ma. Rời Rít-ma họ hạ trại tại Ri-môn Phê-rết. Rời Ri-môn Phê-rết họ hạ trại tại Líp-na. Rời Líp-na họ hạ trại tại Ri-sa. Rời Ri-sa họ hạ trại tại Kê-hê-la-tha. Rời Kê-hê-la-tha họ hạ trại tại núi Sê-phe. Rời núi Sê-phe họ hạ trại tại Ha-ra-đa. Rời Ha-ra-đa họ hạ trại tại Mác-hê-lốt. Rời Mác-hê-lốt họ hạ trại tại Ta-hát. Rời Ta-hát họ hạ trại tại Ta-rách. Rời Ta-rách họ hạ trại tại Mít-ga. Rời Mít-ga họ hạ trại tại Hách-mô-na. Rời Hách-mô-na họ hạ trại tại Mô-sê-rốt. Rời Mô-sê-rốt họ hạ trại tại Bê-nê Gia-can. Rời Bê-nê Gia-can họ hạ trại tại Hô-ghi-gát. Rời Hô-ghi-gát họ hạ trại tại Dốt-ba-tha. Rời Dốt-ba-tha họ hạ trại tại Áp-rô-na. Rời Áp-rô-na họ hạ trại tại Ê-xi-ôn Ghê-be. Rời Ê-xi-ôn Ghê-be họ hạ trại trong sa mạc Xin, nghĩa là tại Ca-đê. Rời Ca-đê họ hạ trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm. Theo lệnh CHÚA, thầy tế lễ A-rôn leo lên núi Hô-rơ rồi qua đời ngày mồng một tháng năm năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. A-rôn hưởng thọ được một trăm hai mươi ba tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ. Vua A-hát người Ca-na-an sống tại miền nam Ca-na-an đã nghe tin dân Y-sơ-ra-ên sắp đến nơi. Rời núi Hô-rơ họ hạ trại tại Xa-mô-na. Rời Xa-mô-na họ hạ trại tại Phu-nôn. Rời Phu-nôn họ hạ trại tại Ô-bốt. Rời Ô-bốt họ hạ trại tại Y-giê A-ba-rim, trên bờ cõi Mô-áp. Rời Y-giê A-ba-rim, họ hạ trại tại Đi-bôn Gát. Rời Đi-bôn Gát, họ hạ trại tại Anh-môn Đíp-lát-tha-im. Rời Anh-môn Đíp-lát-tha-im, họ hạ trại trên núi A-ba-rim, gần Nê-bô. Rời núi A-ba-rim, họ hạ trại trong đồng ruộng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô. Tại đồng bằng Mô-áp, họ hạ trại dọc sông Giô-đanh từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên Si-tim. Trong đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA bảo Môi-se: “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, khi các ngươi qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an, hãy đuổi tất cả dân cư trong xứ đi. Hãy hủy diệt các tượng chạm và tượng đúc và phá đổ tất cả các nơi cao của họ. Hãy chiếm hữu đất đai và định cư tại đó vì Ta đã ban cho các ngươi chiếm hữu xứ ấy. Hãy bắt thăm chia đất theo bộ tộc của họ, cho nhóm đông được hưởng miếng đất lớn, nhóm nhỏ được hưởng miếng đất nhỏ, và được làm chủ miếng đất ấy. Hãy phân phối đất đai theo bộ tộc. Nhưng nếu các ngươi không đuổi dân cư trong xứ, những kẻ các ngươi cho ở lại sẽ như gai đâm trong mắt, chông xóc vào hông. Họ sẽ gây rối cho các ngươi trong xứ các ngươi ở. Lúc ấy, Ta sẽ làm cho các ngươi điều Ta đã làm cho họ.” Ranh Giới Các Chi Tộc CHÚA bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau: Về phía nam, đất gồm có sa mạc Xin, chạy dọc theo ranh nước Ê-đôm. Khởi đầu từ mũi Biển Chết về phía đông, Biên giới phía nam của dốc núi Ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa mạc Xin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đê Ba-nê-a rồi từ đấy chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn. Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua suối Ai-cập và dừng lại ở biển Địa Trung Hải. Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải. Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ. Từ đấy vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát, Xíp-rôn và chấm dứt ở Hát-sa-ê-nan. Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham, từ đó xuống Ríp-lát về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết. Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đanh và chấm dứt ở Biển Chết.” Môi-se nói: “Đó là đất của chín bộ tộc mới. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của CHÚA, vì bộ tộc Ru-bên, Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se đã nhận phần đất của mình bên bờ phía đông sông Giô-đanh.” CHÚA lại bảo Môi-se: “Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, và mỗi bộ tộc một nhà lãnh đạo. Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các bộ tộc: Ca-lép, con trai Giê-phu-nê đại diện Giu-đa. Sê-mu-ên, con A-mi-hút, đại diện cho bộ tộc Si-mê-ôn; Ê-li-đát, con Kít-long, đại diện Bên-gia-min; Bu-ki, con Giốc-đi, đại diện Đan; Ha-ni-ên, con Ê-phát, đại diện Ma-na-se. Kê-mu-ên, con Síp-tan, đại diện Ép-ra-im. Ê-li-sa-phan, con Phác-nát, đại diện Sa-bu-luân, Pha-ti-ên, con A-xan, đại diện Y-sa-ca; A-hi-hút, con Sê-lô-mi, đại diện A-se Phê-đa-ên, con A-mi-hút, đại diện bộ tộc Nép-ta-li. Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho người Y-sơ-ra-ên.” Các Thành Dành Cho Người Lê-vi Tại đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên tặng người Lê-vi các thành cho họ ở, lấy từ trong sản nghiệp dân Y-sơ-ra-ên sẽ được sở hữu. Hãy cho họ các đồng cỏ để chăn nuôi xung quanh các thành ấy. Như thế họ sẽ có các thành để cư trú và các đồng cỏ để chăn nuôi bầy bò, bầy cừu và tất cả các gia súc khác. Các bãi cỏ chăn nuôi xung quanh các thành mà các ngươi tặng người Lê-vi chiều rộng phải được một ngàn am-ma35:4 Khoảng 500m tính từ các bức tường của thành. Ngoài thành, hãy đo hai ngàn am-ma35:5 Khoảng 1,000m về phía đông, hai ngàn am-ma về phía nam, hai ngàn am-ma về phía tây, hai ngàn am-ma về phía bắc, lấy thành làm trung tâm. Họ sẽ được vùng đất ấy để chăn nuôi. Các Thành Ẩn Náu Trong số các thành các ngươi tặng người Lê-vi, phải dành sáu thành làm thành ẩn náu ngõ hầu kẻ sát nhân có thể trốn vào. Ngoài ra, các ngươi hãy tặng họ bốn mươi hai thành khác. Như vậy, các ngươi sẽ tặng người Lê-vi bốn mươi tám thành tất cả luôn cả đất xung quanh thành làm bãi cỏ chăn nuôi. Các thành các ngươi tặng người Lê-vi lấy trong lãnh thổ dân Y-sơ-ra-ên phải tỷ lệ với cơ nghiệp của mỗi bộ tộc: bộ tộc nào có nhiều thành hãy lấy nhiều, bộ tộc nào có ít thành hãy lấy ít.” CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh vào xứ Ca-na-an, hãy chọn một số thành làm thành ẩn náu để kẻ nào ngộ sát có thể trú ẩn. Các thành ấy sẽ làm nơi trú ẩn để tránh người báo thù ngõ hầu kẻ nào bị tố cáo giết người khỏi phải chết trước khi ra tòa của dân chúng. Sáu thành này mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ làm các thành ẩn náu cho các ngươi: ba thành bên tả ngạn sông Giô-đanh và ba thành trong xứ Ca-na-an sẽ làm thành ẩn náu. Sáu thành ấy sẽ là nơi ẩn náu cho dân Y-sơ-ra-ên, cho các ngoại kiều và cho các dân nào khác sống giữa dân Y-sơ-ra-ên ngõ hầu kẻ nào ngộ sát có thể trốn đến đó. Nếu một người dùng một vật bằng sắt đả thương trí mạng kẻ khác, nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một cục đá có thể giết người và nó đả thương trí mạng người khác, thì nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một dụng cụ bằng gỗ có thể giết người, nếu nó đả thương người khác thì nó phạm tội sát nhân và sẽ bị xử tử. Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân; khi nào gặp kẻ sát nhân người phải giết nó đi. Nếu kẻ có gian ý định tâm xô lấn người khác hoặc dụng ý liệng vật gì trúng người đó khiến người đó chết đi hoặc vì sự thù địch mà đánh người bằng tay vì thế người này chết đi, thì kẻ đánh người sẽ bị xử tử vì nó đã giết người. Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân khi gặp nó. Nhưng nếu không do thù hằn, một người thình lình xô lấn người khác hoặc vô tình ném vật gì trúng người ấy, hoặc vì không thấy người kia mà thả xuống một tảng đá trúng nhằm người, nếu người ấy chết dù người ấy không phải là kẻ cừu thù và đương sự không dụng ý làm hại người, hội đồng dân chúng phải xét xử giữa đương sự và người báo thù huyết căn cứ theo các quy luật này. Hội đồng dân chúng phải bảo vệ kẻ bị người báo thù huyết tố cáo phạm tội giết người và cho người ấy trở về thành ẩn náu mà người ấy đã đến trốn. Người ấy phải ở đó cho đến khi thầy tế lễ tối cao đã được xức dầu thánh qua đời. Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi giới hạn ở ngoài thành ẩn náu, là nơi người đã đến trốn và nếu người báo thù huyết bắt gặp, giết nó ở ngoài giới hạn ở ngoài thành ẩn náu thì người báo thù huyết không mắc tội sát nhân; kẻ sát nhân phải ở trong thành ẩn náu cho đến khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Sau khi thầy tế lễ tối cao qua đời kẻ sát nhân ấy được trở về với sản nghiệp mình. Bất luận các ngươi sống nơi nào đều phải áp dụng quy luật này cho mình và cho các thế hệ tương lai. Nếu ai giết người, phải cứ theo lời khai của các nhân chứng mà xử tử kẻ sát nhân, nhưng một nhân chứng không đủ để kết án xử tử. Các ngươi không được nhận tiền chuộc mạng của một tên sát nhân đã đủ bằng chứng mắc tội và đáng chết vì nó buộc phải bị tử hình. Các ngươi đừng nhận tiền chuộc mạng của người đã trốn đến một thành ẩn náu và củng đừng cho phép nó trở về sống trong sản nghiệp mình trước khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi đang sinh sống; máu đổ ra làm ô uế đất đai và không thể nào chuộc tội cho đất đai đã thấm máu đã đổ ra. Phải dùng máu của kẻ đổ máu người mới chuộc tội cho đất đai được. Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi sinh sống và cũng là nơi Ta ngự vì Ta là CHÚA ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.” Cơ Nghiệp Các Cô Con Gái Của Sê-lô-phát Các gia trưởng Ga-la-át là con trai Ma-ki, cháu Ma-na-se trong dòng hậu tự Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se cùng các nhà lãnh đạo và các trưởng bộ tộc trong dân Y-sơ-ra-ên. Họ nói: “Khi CHÚA truyền lệnh cho ngài chia đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, Ngài đã ra lệnh cho chúa tôi ban sản nghiệp của anh Sê-lô-phát chúng tôi cho các con gái anh. Nếu các cô ấy kết hôn với những người Y-sơ-ra-ên trong các bộ tộc khác, thì sản nghiệp của chúng sẽ bị cất đi khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi, mà đem qua sản nghiệp của bộ tộc nào chúng gia nhập. Thế nên, phần đất đó đã bắt thăm cho bộ tộc chúng tôi sẽ bị lấy đi. Đến năm hân hỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của chúng sẽ bị đem qua cho bộ tộc mà chúng gia nhập. Như thế sản nghiệp của chúng sẽ bị truất khỏi cơ nghiệp của tổ tiên chúng tôi.” CHÚA truyền lệnh cho Môi-se ban bố chỉ thị này cho dân Y-sơ-ra-ên: “Bộ tộc của con Giô-sép nói có lý. Đây là điều CHÚA phán dạy về các con gái của Sê-lô-phát, chúng muốn kết hôn với ai tuỳ ý nhưng chỉ hãy kết hôn trong các gia tộc trong bộ tộc của tổ phụ mình. Không một sản nghiệp nào trong dân Y-sơ-ra-ên được chuyển từ bộ tộc này qua bộ tộc khác vì mỗi công dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ đất đai của bộ tộc mình thừa hưởng từ tổ tiên. Mỗi người con gái được thừa hưởng đất đai trong bất cứ bộ tộc nào của Y-sơ-ra-ên cũng phải kết hôn với người thuộc trong bộ tộc của cha mình ngõ hầu mỗi công dân Y-sơ-ra-ên được sở hữu sản nghiệp của tổ phụ mình. Không một sản nghiệp nào được chuyển từ bộ tộc này qua bộ tộc khác, vì mỗi bộ tộc Y-sơ-ra-ên phải giữ đất đai mình đã thừa hưởng.” Vậy, các con gái của Sê-lô-phát làm theo điều CHÚA phán dạy Môi-se. Các con gái của Sê-lô-phát: Mách-đa, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca và Nô-a đều kết hôn với anh em chú bác của mình. Các cô ấy kết hôn trong vòng các gia tộc của dòng dõi Ma-na-se con trai Giô-sép, nên sản nghiệp họ vẫn còn lại trong bộ tộc và gia tộc của cha mình. Đó là các mệnh lệnh và quy luật mà CHÚA dùng Môi-se ban hành cho dân Y-sơ-ra-ên trong các đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.