- New Vietnamese Bible 2014 Giăng Phúc Âm GIĂNG Giăng Gi Phúc Âm GIĂNG Giới Thiệu Phúc Âm Giăng trình bày Chúa Giê-su như là Lời Vĩnh Cửu của Đức Chúa Trời giáng thế làm người và ở giữa chúng ta. Phúc Âm Giăng nói rõ, sách được viết ra để người đọc có thể tin rằng Chúa Giê-su chính là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời và nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế họ sẽ được đời sống vĩnh phúc. Sau phần giới thiệu trình bày Ngôi Lời chính là Chúa Giê-su, Giăng ghi lại những phép lạ chứng tỏ Chúa Giê-su là Chúa Cứu Thế đã được hứa từ xưa. Phần kế tiếp ghi chép những cuộc bàn luận giải thích những điều được khải thị qua các phép lạ. Giăng cũng trình bày thế nào sau một thời gian, một số người hiểu, tin và trở nên môn đệ của Chúa Giê-su trong khi đó một số khác lại chống đối Ngài. Phần sau của Phúc Âm Giăng nói nhiều đến mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài; những lời giáo huấn tha thiết của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa chịu chết trên cây thập tự. Phần cuối của sách Phúc Âm Giăng tường thuật rõ các sự kiện Ngài bị bắt, xử án, đóng đinh, chết và sống lại của Chúa Giê-su. Giăng nhấn mạnh rằng sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su như là một tặng phẩm của Đức Chúa Trời mà loài người có thể nhận được ngay trong hiện tại được Đức Giê-su minh họa qua những hình ảnh thông thường trong cuộc sống như bánh, nước, gió, ánh sáng, cây nho và bông trái v.v… Bố Cục 1. Phần mở đầu 1:1-18 2. Giăng Báp-tít và các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su 1:19-51 3. Một số dấu lạ và sự giảng dạy đặc biệt của Đức Giê-su 2:1–12:50 4. Những ngày cuối cùng tại Giê-ru-sa-lem 13:1–19:42 5. Sự phục sinh và xuất hiện của Chúa Giê-su tại Giê-ru-sa-lem 20:1-31 6. Phần kết thúc: sự xuất hiện của Chúa tại Ga-li-lê 21:1-25 Ngôi Lời Trở Nên Người Ban đầu1:1 Ctd: Trước khi sáng tạo đã có Ngôi Lời.1:1 Xem Sáng 1:1. Ngôi Lời “Logos” chỉ về lời nói lẫn ý tưởng nhưng cũng chỉ về nguyên lý tác động trong vũ trụ Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Từ ban đầu Ngài đã ở cùng Đức Chúa Trời. Tất cả được dựng nên bởi Ngài. Không gì được dựng nên mà không do Ngài. Trong Ngài có sự sống và sự sống là sự sáng cho nhân loại.1:4 sự sống là chủ đề lớn trong Phúc Âm Giăng. Chúa Giê-su chính là sự Sáng 14:6. Chúa Cứu Thế cũng là ánh sáng của thế giới 8:12 Sự sáng chiều sáng trong tối tăm và tối tăm không khống chế được sự sáng. Có một người được Đức Chúa Trời phái đến, tên là Giăng.1:6 Đây là Giăng Báp-tít Ông đến như một nhân chứng, để làm chứng cho sự sáng, hầu qua ông mọi người có thể tin.1:7 Giăng Báp-tít là nhân chứng và người giới thiệu Chúa Cứu Thế Giê-su cho mọi người Chính Giăng không phải là sự sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho sự sáng. Sự sáng thật này đã đến trong trần gian soi sáng cho mọi người.1:9 ánh sáng ở đây chỉ về Ngôi Lời giáng thế làm người Ngôi Lời đã hiện hữu trong thế giới, là thế giới được dựng nên bởi Ngài nhưng thế giới đã không nhận biết Ngài.1:10 Giăng dùng từ “thế giới” với nhiều nghĩa khác nhau. Ở đây “thế giới” chỉ về loài người chống lại Đức Chúa Trời hay hệ thống con người chống lại mục đích của Chúa Ngài đã đến với dân mình mà dân Ngài không nghênh tiếp. Nhưng những ai tiếp nhận Ngài, nghĩa là tin danh Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở nên con cái Đức Chúa Trời,1:12 “tiếp nhận” Chúa và “tin” Chúa đồng nghĩa với nhau. Từ “quyền” chỉ về quyền lợi như quyền công dân hay quyền làm người chứ không phải quyền năng là những người không sinh ra bởi huyết thống, bởi xác thịt hay bởi ý người, nhưng bởi Đức Chúa Trời.1:13 Đây là sự “tái sinh” phần tâm linh Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, cư ngụ1:14 Ám chỉ “Đền Tạm” trong Cựu Ước (Xuất 40:34-35) giữa chúng ta, tràn đầy ân sủng và chân lý. Chúng tôi đã chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, là vinh quang của Con Một đến từ Cha. Khi làm chứng về Ngài, Giăng long trọng tuyên bố: “Đây là Đấng tôi vẫn nói rằng: ‘Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi, vì Ngài đã có trước tôi.’ ”1:15 Giăng chứng nhận rằng dù Chúa Giê-su sinh ra làm người sau Giăng nhưng Ngài vốn hiện hữu từ vĩnh cửu Nhờ sự đầy trọn của Ngài, chúng ta hết thảy đều được ân sủng bội phần. Vì Kinh Luật được ban hành qua Môi-se, còn ân sủng và chân lý được thành qua Chúa Cứu Thế Giê-su.1:17 Nt: “Xristos”, đấng được xức dầu Chưa ai trông thấy Đức Chúa Trời bao giờ, chỉ Con Một Đức Chúa Trời ở tận trong lòng Cha mới giải bày được Đức Chúa Trời cho chúng ta.1:18 Trong thời Cựu Ước có một số người được thấy Đức Chúa Trời trong một số hình thức nhưng không ai có thể thấy chính Ngài mà còn sống (Xuất 33:20) Lời Chứng Của Giăng (Mat 3:1-12; Mác 1:2-8; Lu 3:15-17) Sau đây là lời chứng của Giăng khi những người Do Thái ở thành Giê-ru-sa-lem phái các thầy tế lễ và người Lê-vi đến hỏi: “Ông là ai?” Giăng tuyên xưng không hề chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Chúa Cứu Thế.” Họ hỏi: “Vậy thì ông là ai? Là Ê-li phải không?” Giăng bảo: “Không phải!” “Ông có phải là Đấng tiên tri không?” Giăng đáp: “Không!” Vậy họ hỏi tiếp: “Ông là ai để chúng tôi có câu trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng mình là ai?” Giăng đáp: “Tôi là một tiếng nói, kêu lên nơi đồng hoang. Hãy làm thẳng con đường Chúa.”1:23 Isa 40:3 Theo lời tiên tri I-sa. Nhóm người được cử đến thuộc phái Pha-ri-si. Họ chất vấn Giăng: “Nếu ông không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là Ê-li, cũng không phải là Đấng tiên tri, tại sao ông lại làm phép báp-tem?” Giăng đáp: “Tôi chỉ làm phép báp-tem bằng nước, nhưng ngay giữa vòng các ông hiện có một Người mà các ông không nhận biết. Người ấy đến sau tôi, tôi không đáng tháo quai dép Người!” Những việc này xảy ra ở Bê-tha-ni, bên kia bờ sông Giô-đanh, nơi Giăng đang làm phép báp-tem. Chiên Con Của Đức Chúa Trời Ngày hôm sau, khi thấy Đức Giê-su đến với mình, Giăng nói: “Kìa Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng cất tội lỗi thế gian đi! Đây là Người mà tôi đã nói: Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi vì Ngài đã có trước tôi. Phần tôi, tôi vốn không biết Ngài, nhưng để Ngài có thể được bày tỏ ra cho Y-sơ-ra-ên, tôi đã đến làm phép báp-tem bằng nước.” Rồi Giăng dẫn chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Linh1:32 Nt: linh như bồ câu từ trời xuống, đậu trên Ngài. Tôi vốn không biết Ngài là ai, nhưng Đấng sai tôi đến làm phép báp-tem bằng nước có phán dặn tôi: Hễ con thấy Thánh Linh giáng xuống đậu trên ai, đó chính là Đấng sẽ làm phép báp-tem bằng Thánh Linh. Tôi đã thấy, nên làm chứng rằng đây chính là Con Đức Chúa Trời.” Các Môn Đệ Đầu Tiên Hôm sau, khi Giăng lại đang đứng với hai môn đệ của mình. Nhìn thấy Đức Giê-su đi qua ông nói: “Kìa Chiên Con của Đức Chúa Trời!” Hai môn đệ nghe vậy, liền đi theo Đức Giê-su. Thấy họ theo mình, Đức Giê-su quay lại hỏi: “Các ngươi tìm ai?” Họ thưa: “Ra-bi, nghĩa là ‘Thưa Thầy’, Thầy trọ ở đâu?” Ngài bảo: “Hãy đến xem!” Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều.1:39 Nt: giờ thứ mười Vậy họ đến xem chỗ Ngài trọ và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Một trong hai người đã nghe lời Giăng đi theo Ngài là An-rê, em của Si-môn Phê-rơ. Việc đầu tiên An-rê làm là đi tìm anh mình và nói: “Chúng em đã gặp được Đấng Mê-si-a, nghĩa là Chúa Cứu Thế.” An-rê đưa Si-môn đến gặp Đức Giê-su. Ngài nhìn Si-môn bảo: “Ngươi là Si-môn, con của Giô-na, nhưng ngươi sẽ được gọi là Kê-pha,”1:42 Tiếng A-ram nghĩa là Phê-rơ. Chúa Gọi Phi-líp Và Na-tha-na-ên Qua ngày sau, Đức Giê-su quyết định lên miền Ga-li-lê. Gặp Phi-líp, Ngài bảo: “Hãy theo Ta!” Phi-líp quê ở Bết-sai-đa, cùng thành với An-rê và Phê-rơ. Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, nói rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng mà Môi-se đã viết trong Kinh Luật, và các tiên tri nói đến. Ngài là Đức Giê-su, con ông Giô-sép ở Na-xa-rét.” Na-tha-na-ên nói: “Có gì tốt ra từ Na-xa-rét đâu?” Phi-líp đáp: “Cứ đến mà xem!” Thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, Đức Giê-su nói về người rằng: “Đây đúng là một người Y-sơ-ra-ên, trong lòng không có gì gian dối!” Na-tha-na-ên hỏi: “Sao Thầy biết tôi?” Đức Giê-su đáp: “Trước khi Phi-líp gọi ngươi, Ta đã thấy ngươi dưới cây vả!” Na-tha-na-ên thưa: “Thưa Thầy, Thầy đúng là Con Đức Chúa Trời, Thầy là Vua Y-sơ-ra-ên!” Đức Giê-su hỏi lại: “Có phải vì Ta nói Ta thấy ngươi dưới cây vả mà ngươi tin không? Ngươi sẽ còn thấy nhiều việc lớn hơn nữa!” Rồi Ngài tuyên bố: “Các ngươi sẽ thấy bầu trời mở ra và thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Người!” Tiệc Cưới Tại Ca-na Ba ngày sau, có một tiệc cưới ở Ca-na, miền Ga-li-lê. Mẹ Đức Giê-su có mặt tại đó. Đức Giê-su và các môn-đệ cũng được mời dự tiệc. Khi thiếu rượu, mẹ Đức Giê-su bảo Ngài: “Người ta hết rượu rồi!” Đức Giê-su nói: “Hỡi mẹ, việc của tôi có can hệ gì đến việc của mẹ? Giờ của tôi chưa đến!” Mẹ Ngài nói với những người hầu tiệc: “Người bảo sao hãy làm vậy!” Tại đó có sáu cái vại bằng đá, mỗi cái chứa khoảng hai đến ba lường nước,2:6 Khoảng 80 đến 120 lít dùng cho tục lệ tẩy sạch của người Do Thái. Đức Giê-su bảo: “Hãy đổ nước đầy các vại này đi!” Họ đổ đầy tới miệng vại. Rồi Ngài tiếp: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc.” Vậy họ mang đến cho ông ấy. Khi người quản tiệc nếm nước đã biến thành rượu, (chẳng biết rượu từ đâu đến, nhưng những người hầu tiệc đã múc nước thì biết rõ) ông gọi chú rể bảo: “Người ta ai cũng đãi rượu ngon trước, còn rượu dở dành cho lúc khách đã say, còn anh lại giữ rượu ngon cho đến bây giờ!” Thế là tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên và bày tỏ vinh quang Ngài, nên các môn đệ tin Ngài. Sau đó, Chúa cùng với mẹ, các em và môn đệ xuống thành Ca-pha-na-um, nhưng chỉ ghé lại ít ngày thôi. Dọn Sạch Đền Thờ (Mat 21:12-13; Mác 11:15-17; Lu 19:45-46) Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. Ngài thấy trong sân đền thờ người thì buôn bán bò, chiên, bồ câu; kẻ lại ngồi đổi bạc. Ngài bện dây roi, đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ luôn với chiên bò. Ngài vứt tung tiền và lật đổ bàn ghế của người đổi bạc. Ngài truyền lệnh cho những người bán bồ câu: “Dẹp sạch những thứ này đi! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Môn đệ Ngài bèn nhớ lại lời đã chép: “Nhiệt tình về nhà Chúa thiêu đốt tôi!”2:17 Thi 69:9 Còn người Do Thái vặn hỏi Ngài: “Ông có dấu lạ gì để chứng tỏ ông có quyền hành động như vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Phá hủy thánh điện2:19 Nt: naos chỉ Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh này đi rồi trong ba ngày Ta sẽ dựng lại!” Người Do Thái hỏi lại: “Người ta phải mất bốn mươi sáu năm để xây thánh điện này mà ông chỉ cần ba ngày để dựng lại sao?” Nhưng thánh điện Ngài nói đây là thân xác Ngài. Vì vậy, sau khi Ngài sống lại, các môn đệ mới nhớ ra là Ngài đã nói như vậy, nên họ tin Kinh Thánh2:22 Kinh Thánh Cựu Ước và lời Đức Giê-su dạy. Chúa Biết Lòng Người Khi Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ Vượt Qua, nhiều người tin danh Ngài vì thấy những dấu lạ Ngài đã làm, nhưng Đức Giê-su không tin cậy họ vì Ngài biết tất cả mọi người. Không cần ai làm chứng về loài người vì Ngài biết rõ lòng dạ con người. Chúa Và Ni-cô-đem Trong giới lãnh đạo Do Thái có một người tên là Ni-cô-đem, thuộc phái Pha-ri-si. Ban đêm, người này đến gặp Đức Giê-su và thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến, vì những dấu lạ Thầy làm nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng thì không ai làm được.” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo ông, nếu một người chẳng sinh từ thiên thượng3:3 Ctd: tái sinh thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời!” Ni-cô-đem thưa: “Người đã già làm sao được sinh ra một lần nữa? Không lẽ lại trở vào lòng mẹ để được sinh ra lần thứ hai sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo ông, nếu không nhờ nước và Thánh Linh mà sinh ra, không một người nào được vào Nước Đức Chúa Trời! Phần gì sanh ra bởi xác thịt là xác thịt, phần gì sanh ra bởi Thánh Linh là Linh. Đừng thấy lạ khi Ta bảo ông cần phải được sinh lại từ thiên thượng. Gió muốn thổi đâu thì thổi, người nghe tiếng gió nhưng không biết gió đến từ đâu và lại đi đâu. Người được Thánh Linh sinh ra cũng giống như vậy.” Ni-cô-đem thưa: “Việc đó làm sao xảy ra được?” Đức Giê-su đáp: “Ông là bậc thầy của Y-sơ-ra-ên mà không biết những điều đó sao? Thật vậy, Ta bảo ông: Chúng ta nói điều chúng ta biết, làm chứng điều chúng ta thấy; thế mà các ông vẫn không chấp nhận lấy lời chứng của chúng ta. Ta nói những việc dưới đất, các ông còn chưa tin, huống chi những việc trên trời thì làm sao tin được? Chưa có ai từng lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, tức là Con Người. Như Môi-se treo con rắn lên cao trong nơi đồng hoang thể nào thì Con Người cũng phải bị treo lên thể ấy, để tất cả những ai tin Ngài đều được sự sống vĩnh phúc. Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nơi Ngài sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh phúc. Đức Chúa Trời cho Con Ngài xuống thế gian không phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Đức Con mà được cứu. Ai tin Đức Con hẳn khỏi bị kết án, nhưng ai không tin thì đã bị kết án rồi vì chẳng chịu tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời. Đây là phán quyết: Sự sáng đã đến trong thế gian nhưng người ta yêu chuộng sự tối tăm hơn sự sáng vì hành vi của họ là gian ác. Hễ ai làm ác thì ghét sự sáng và không chịu đến cùng sự sáng, sợ rằng hành vi của mình sẽ bị phơi bày. Còn người làm theo chân lý thì đến cùng sự sáng để những công việc mình đã làm trong Đức Chúa Trời được thấy rõ.” Chúa Và Giăng Báp-tít Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến vùng đất Giu-đê. Ngài cùng họ ở lại đó và làm phép báp-tem. Giăng cũng đang làm phép báp-tem tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đó có nhiều nước. Người ta kéo nhau đến chịu phép báp-tem. Bấy giờ Giăng chưa bị bắt giam. Một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của Giăng với một người Do Thái về nghi lễ tinh sạch. Họ đến thưa với Giăng: “Thưa thầy, Người đã đến với thầy bên kia sông Giô-đanh mà thầy làm chứng cho, hiện đang làm phép báp-tem và thiên hạ kéo nhau đến với Người.” Giăng đáp: “Trời không cho thì chẳng ai lãnh được gì cả! Ta đã nói, có các ngươi làm chứng, ta không phải là Chúa Cứu Thế nhưng chỉ là người được phái đến trước Ngài. Ai cưới vợ mới là chàng rể. Bạn của chàng rể chỉ đứng nghe ngóng và khi nghe được tiếng chàng rể thì hớn hở vui mừng. Chính vì thế mà ta mãn nguyện. Ngài phải được tôn cao, còn ta phải hạ xuống. Đấng Đến Từ Thiên Đàng Đấng đến từ trên cao trổi hơn mọi người, còn kẻ từ đất mà ra thuộc về đất và chỉ nói được chuyện trần gian. Đấng từ trời xuống cao trọng hơn mọi người Ngài làm chứng những gì Ngài đã thấy và nghe, mà không ai chịu nhận lấy lời chứng của Ngài. Người nào nhận lấy lời chứng của Ngài, thì xác nhận rằng Đức Chúa Trời là chân thật. Vì Đấng được Đức Chúa Trời sai đến thì truyền rao lời của Đức Chúa Trời và được Ngài ban Thánh Linh vô hạn. Cha yêu Con và đã trao mọi sự vào tay Con. Ai tin Con thì được sự sống vĩnh phúc; ai không chịu vâng phục Con thì chẳng được sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn còn trên người đó!” Đức Giê-su Và Người Thiếu Phụ Sa-ma-ri Thế rồi, Đức Giê-su rời miền Giu-đê trở về Ga-li-lê, vì biết rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài đã làm phép báp-tem và thu phục được nhiều người hơn Giăng. Thật ra, chính Đức Giê-su không làm phép báp-tem mà là các môn đệ của Ngài. Ngài thấy cần phải đi con đường băng qua Sa-ma-ri. Vậy, Ngài đến một thị trấn trong miền Sa-ma-ri, tên là Si-kha, gần thửa đất mà xưa Gia-cốp đã cho con là Giô-sép. Tại đó có cái giếng của Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi nên Đức Giê-su ngồi nghỉ bên giếng. Lúc đó, khoảng giữa trưa. Một người đàn bà Sa-ma-ri ra múc nước. Đức Giê-su bảo: “Cho Ta xin một chút nước uống!” Lúc ấy các môn đệ Ngài đã vào thành phố mua thức ăn. Người đàn bà Sa-ma-ri đáp: “Ông là người Do Thái, tôi là đàn bà Sa-ma-ri, sao ông lại xin tôi nước uống?” Vì người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giê-su đáp: “Nếu ngươi biết tặng phẩm của Đức Chúa Trời ban và biết Người xin ngươi nước uống là ai, chắc ngươi sẽ xin Người và Người sẽ cho ngươi nước trường sinh!” Bà ấy nói với Ngài: “Thưa ông, gàu ông không có mà giếng lại sâu, làm sao ông múc được nước trường sinh đó? Chẳng lẽ ông hơn cả tổ phụ Gia-cốp chúng tôi sao? Người đã để lại giếng này cho chúng tôi, chính người, con cháu và đàn gia súc đều đã uống giếng này.” Đức Giê-su đáp: “Ai uống nước này rồi cũng khát lại, nhưng uống nước Ta ban cho sẽ chẳng bao giờ khát nữa. Nước Ta ban cho sẽ biến thành mạch nước trong người, tuôn tràn sự sống vĩnh phúc.” Bà nói với Ngài: “Thưa ông, xin cho tôi nước đó để tôi không còn khát và cũng khỏi đến đây múc nước nữa!” Ngài bảo: “Ngươi về gọi chồng ra đây!” Bà đáp rằng: “Tôi không có chồng!” Ngài nói với bà: “Bảo là không chồng thì cũng đúng, vì ngươi đã có năm đời chồng và người ngươi hiện có cũng chẳng phải là chồng! Ngươi đã nói thật đó!” Bà thưa với Ngài: “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một tiên tri của Đức Chúa Trời. Tổ tiên chúng tôi đã thờ phượng trên ngọn núi này, còn các ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi để thờ phượng!” Đức Giê-su đáp: “Hỡi người nữ hãy tin Ta đi, sắp đến lúc ngươi không còn thờ phượng Cha trên ngọn núi này hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. Ngươi thờ phượng Đấng ngươi không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi từ người Do Thái mà đến! Nhưng giờ sắp điểm và thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và lẽ thật, vì Chúa Cha vẫn tìm kiếm những người thờ phượng Ngài như vậy. Đức Chúa Trời là Linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong tâm linh và lẽ thật.” Người đàn bà thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a (nghĩa là Chúa Cứu Thế) sẽ đến và khi đến, Ngài sẽ chỉ bảo cho chúng ta tất cả.” Đức Giê-su đáp: “Ta, người đang nói với ngươi, chính là Đấng đó!” Lúc ấy các môn đệ Ngài vừa về, họ ngạc nhiên thấy Ngài chuyện trò với một người đàn bà, nhưng không ai hỏi Thầy cần gì, hay tại sao lại chuyện trò với người đàn bà ấy? Người đàn bà để vò nước lại, trở vào thành, nói với mọi người: “Hãy đến xem một người đã nói với tôi mọi việc tôi làm. Có phải chăng đây là Chúa Cứu Thế không?” Họ kéo nhau ra khỏi thành đến cùng Ngài. Đang khi đó các môn đệ cứ nài nỉ: “Thưa Thầy, xin mời Thầy ăn!” Ngài trả lời: “Ta có thức ăn mà các con không biết được.” Các môn đệ bèn bảo nhau: “Chẳng lẽ có người đã mời Thầy ăn rồi sao?” Đức Giê-su bảo họ: “Thức ăn của Ta là tuân theo ý muốn của Đấng đã sai Ta và hoàn thành công việc Ngài. Chẳng phải chính các con đã nói còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt, nhưng Ta bảo: Hãy ngước mắt lên nhìn đồng lúa đã vàng, sẵn sàng cho mùa gặt. Thợ gặt đã lãnh tiền công và thu góp hoa lợi vào sự sống vĩnh phúc để kẻ gieo chung vui với người gặt. Thật đúng như câu người ta vẫn nói: Kẻ thì lo gieo, người thì lo gặt. Chính Ta đã sai các con đến gặt ở chỗ mình không gieo, người khác đã nhọc nhằn để các con vào hưởng công lao của họ.” Nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì người đàn bà ấy làm chứng rằng Ngài đã nói với bà mọi điều bà đã từng làm. Vì vậy, những người Sa-ma-ri đến yêu cầu Ngài ở lại với họ, nên Ngài ở đó hai ngày. Người tin Đức Giê-su càng đông thêm khi nghe Ngài giảng dạy. Họ bảo bà ấy: “Bây giờ không phải vì nghe chị nói mà chúng tôi tin đâu, nhưng vì chính chúng tôi đã nghe Ngài dạy, nên chúng tôi biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Rỗi của nhân loại.” Chúa Chữa Lành Con Một Viên Quan (Mat 8:5-13; Lu 7:1-10) Hai ngày sau, Đức Giê-su lên đường đến Ga-li-lê, vì chính Ngài cũng đã xác nhận rằng không một tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương. Khi đến Ga-li-lê, người Ga-li-lê nghênh tiếp Ngài, vì họ có lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và đã chứng kiến mọi việc Ngài làm tại đó trong kỳ lễ. Rồi Ngài về lại Ca-na, miền Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Một viên quan ở Ca-pha-na-um có đứa con trai lâm bệnh. Nghe tin Đức Giê-su đã rời Giu-đê về Ga-li-lê, ông đến xin Ngài xuống chữa bệnh cho con mình, vì đứa con đang hấp hối. Đức Giê-su nói với ông: “Nếu không thấy dấu lạ phép mầu, hẳn các ngươi chẳng chịu tin đâu!” Viên quan thưa: “Lạy Chúa, xin Chúa đến trước khi con tôi chết!” Đức Giê-su bảo: “Cứ về đi, con của ông sống.” Người ấy tin lời Đức Giê-su nói với mình mà đi về. Trên đường về, các gia nhân ra đón ông trình rằng: “Con của chủ đã bình phục rồi!” Ông hỏi xem bình phục khi nào thì họ thưa: “Hôm qua, vào giờ thứ bảy cơn sốt lìa khỏi.”4:52 Lúc một giờ trưa Người cha nhận ra rằng đó là giờ Đức Giê-su bảo mình: “Con của ông sống!” nên chính ông và cả nhà đều tin. Đây là dấu lạ thứ nhì mà Đức Giê-su đã làm sau khi Ngài rời Giu-đê về Ga-li-lê. Chúa Chữa Bệnh Bên Ao Bết-xa-tha Sau đó, nhằm một kỳ lễ của người Do Thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Tại Giê-ru-sa-lem, gần bên Cửa Chiên, có một cái ao dưới vòm cung, tiếng Do Thái gọi là Bết-xa-tha. Người đau yếu, mù lòa, què quặt và bại liệt nằm tại đây rất đông. Họ chờ khi nước động, vì thỉnh thoảng một thiên sứ của Chúa giáng xuống ao, khuấy động mặt nước, người nào xuống ao đầu tiên khi nước dao động thì dù mắc bệnh gì cũng được lành.5:4 Một vài văn bản cổ có câu này Ở đó có một người mắc bệnh đã ba mươi tám năm. Đức Giê-su thấy người nằm liệt, biết người mang bệnh đã lâu nên hỏi: “Ngươi có muốn lành bệnh không?” Người bệnh đáp: “Thưa ông, chẳng có ai quăng tôi xuống ao khi nước dao động. Khi tôi lần tới được thì người khác đã xuống trước tôi rồi!” Đức Giê-su bảo: “Ngươi hãy đứng dậy, vác cáng của ngươi và bước đi!” Lập tức, người ấy được lành, vác cáng mà đi. Hôm ấy nhằm ngày Sa-bát.5:9 Ngày thứ bảy, lễ nghỉ cuối tuần Vì thế, người Do Thái nói với người được chữa lành: “Hôm nay là ngày Sa-bát, ngươi không được phép vác cáng đi như vậy!” Anh ta đáp: “Chính người đã chữa lành cho tôi bảo tôi: Hãy vác cáng của ngươi mà đi!” Họ hỏi: “Ai là người dám bảo ngươi mang cáng đi?” Người được lành bệnh không biết là ai vì Đức Giê-su đã lẩn vào đám đông đang tụ tập tại đó. Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy tại đền thờ, Ngài bảo: “Này, ngươi đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e lại gặp điều càng tệ hơn chăng?” Người ấy ra đi báo cho người Do Thái biết rằng chính Đức Giê-su là người đã chữa lành cho mình. Thế là người Do Thái theo dõi bắt bớ Đức Giê-su, chỉ vì Ngài đã làm những việc ấy trong ngày Sa-bát. Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Cha Ta vẫn đang làm việc cho đến bây giờ và Ta cũng đang làm như vậy!” Do đó, người Do Thái càng rắp tâm giết Đức Giê-su, vì không những Ngài đã phạm ngày Sa-bát mà còn gọi Đức Chúa Trời là Cha, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời. Thẩm Quyền Của Đức Chúa Con Vì thế, Đức Giê-su đáp cùng họ rằng: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Con chẳng tự mình làm bất cứ việc gì, trừ những việc Con đã thấy Cha làm, vì điều gì Cha làm thì Con cũng làm y như vậy! Cha yêu quý Con nên bày tỏ cho Con tất cả những điều Cha làm và lại còn tỏ những việc vĩ đại hơn nữa, làm ngươi phải kinh ngạc. Như Cha đã khiến kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thế nào thì Con cũng sẽ ban sự sống cho người nào Con muốn thể ấy! Thậm chí Cha chẳng xét xử ai cả nhưng đã trao cho Con trọn quyền xét xử để mọi người tôn kính Con cũng như họ đã tôn kính Cha. Người nào chẳng tôn kính Con thì cũng không tôn kính Cha là Đấng đã sai Con đến. Thật vậy, Ta bảo các ngươi, ai nghe theo lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta sẽ được sự sống vĩnh phúc, và không bị kết án, nhưng vượt khỏi sự chết để vào sự sống. Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Giờ sắp điểm, mà thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người chết sẽ được nghe tiếng của Con Đức Chúa Trời và những người nào nghe theo sẽ được sống. Vì chính Cha có Sự Sống trong Ngài, nên Ngài cũng đã ban cho Con có Sự Sống trong mình. Ngài đã ban cho Con quyền thi hành xét xử, vì Con chính là Con Người! Ngươi đừng kinh ngạc về điều này, vì giờ sắp điểm, khi tất cả những người trong mộ phần sẽ nghe tiếng gọi của Ngài và ra khỏi mộ. Ai làm lành sẽ sống lại để được sống, còn ai làm ác sẽ sống lại để bị xét xử. Ta không thể tự mình làm việc gì. Ta xét xử chính xác theo điều Ta nghe và sự xét xử của Ta thật công minh vì Ta không tìm kiếm ý mình nhưng theo ý Đấng đã sai Ta. Chứng Cớ Về Đức Giê-su Nếu chính Ta làm chứng về mình thì lời chứng của Ta không xác thực. Có một Đấng khác làm chứng về Ta và Ta biết lời chứng của Ngài về Ta là xác thực. Chính các ngươi đã cử người đến cùng Giăng và người đã xác chứng sự thật. Ta không dựa vào lời chứng của loài người, nhưng Ta nói lên những điều này để các ngươi được cứu rỗi. Giăng là ngọn đèn đã cháy sáng mà chính các ngươi đã muốn vui trong ánh sáng của người một thời gian ngắn ngủi. Nhưng chính Ta có một bằng chứng lớn lao hơn của Giăng, đó là các công tác Cha giao cho Ta hoàn tất. Chính các công tác Ta làm đó chứng thực về Ta rằng Cha đã sai Ta! Chính Cha là Đấng sai Ta và làm chứng về Ta. Các ngươi chưa bao giờ nghe được tiếng của Ngài, cũng chưa bao giờ thấy được hình dạng Ngài. Đạo Ngài các ngươi đã không giữ trong lòng, vì các ngươi không chịu tin theo Đấng mà Ngài sai đến. Các ngươi tra cứu Kinh Thánh, vì các ngươi nghĩ rằng trong đó có sự sống vĩnh phúc. Kinh Thánh cũng làm chứng về Ta. Thế mà các ngươi vẫn không chịu đến cùng Ta để được sự sống. Ta chẳng cầu vinh nơi loài người, nhưng Ta biết các ngươi chẳng có lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Chính Ta đã nhân danh Cha Ta mà đến nhưng các ngươi không tiếp nhận Ta; nếu có người nào khác lấy danh nghĩa riêng mà đến thì các ngươi lại đón tiếp! Làm sao các ngươi tin được một khi các ngươi chỉ thích nhận vinh quang của nhau thay vì tìm kiếm vinh quang từ Đức Chúa Trời duy nhất? Đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi trước mặt Cha; Môi-se, người mà các ngươi kỳ vọng, chính là người sẽ tố cáo các ngươi! Nếu các ngươi thật sự tin lời Môi-se thì hẳn đã tin Ta, vì người viết về Ta! Nhưng nếu những lời người ghi chép mà các ngươi còn không tin, thì làm sao các ngươi tin lời Ta nói đây?” Chúa Hóa Bánh Cho Năm Ngàn Người Ăn Sau những việc này, Đức Giê-su qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Ti-bê-ri-át. Một đoàn người đông đảo đi theo Ngài vì đã chứng kiến những dấu lạ Ngài làm cho những người bệnh. Đức Giê-su lên núi cùng ngồi với các môn đệ. Hôm ấy gần đến lễ Vượt Qua, kỳ lễ hội lớn của người Do Thái. Vậy, Đức Giê-su ngước mắt lên, nhìn đoàn người đông đảo đến với Ngài rồi hỏi Phi-líp: “Ta tìm đâu ra bánh để mua cho họ ăn đây?” Ngài hỏi vậy để thử Phi-líp chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi. Phi-líp thưa: “Lấy hai trăm đồng đê-na-ri6:7 Đê-na-ri: một đơn vị tiền tệ La-mã trị giá một ngày công mua bánh cũng không đủ cho mỗi người một miếng nhỏ.” Một môn đệ khác của Ngài là An-rê, em Si-môn Phê-rơ, thưa với Ngài: “Đây có một cậu bé mang theo năm cái bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng đông thế này thì thấm vào đâu!” Đức Giê-su nói: “Hãy bảo người ta ngồi xuống!” Chỗ ấy có nhiều cỏ, nên họ ngồi lại, kể riêng đàn ông có đến năm ngàn. Vậy, Đức Giê-su cầm bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi phân phát cho những người ngồi đó, xong bánh lại đến cá, ai muốn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no, Ngài bảo các môn đệ: “Hãy thu lượm bánh thừa để khỏi phí phạm.” Vậy họ thu lượm những mảnh vụn của năm chiếc bánh lúa mạch mà người ta đã ăn, được mười hai giỏ đầy. Khi đã thấy phép lạ Ngài làm, người ta bảo nhau: “Người này chính là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian.” Rồi vì biết rằng họ sắp đến ép Ngài lên làm vua, Đức Giê-su lại lánh lên núi một mình. Đến chiều, các môn đệ của Ngài trở xuống biển, lên thuyền sang bờ bên kia về hướng Ca-pha-na-um. Trời đã tối mà Đức Giê-su vẫn chưa đến với họ. Gió chợt thổi mạnh và biển nổi sóng lớn. Họ chèo chống được khoảng năm hay sáu cây số,6:19 Nt: khoảng 25-30 ết-ta-đơ thì thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến gần thuyền. Họ kinh hoàng, nhưng Ngài bảo họ: “Chính Ta đây, đừng sợ nữa!” Họ muốn rước Ngài vào thuyền, thì lập tức thuyền đã cập vào bến mà họ định đi đến. Ngày hôm sau, đoàn dân còn ở lại bên kia biển hồ thấy ở đó chỉ có một chiếc thuyền mà Đức Giê-su thì không xuống thuyền với các môn đệ, chỉ có các môn đệ của Ngài chèo đi thôi. Những thuyền khác từ Ti-bê-ri-át cập bến gần chỗ đoàn dân đã ăn bánh sau khi Chúa tạ ơn. Vì vậy, khi đoàn dân không thấy Đức Giê-su và các môn đệ Ngài ở đó thì lên thuyền đến Ca-pha-na-um tìm Đức Giê-su. Khi gặp được Ngài bên kia bờ biển, họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đến đây lúc nào vậy?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Các ngươi tìm Ta chẳng phải vì đã chứng kiến các dấu lạ nhưng chỉ vì được bánh ăn no nê! Đừng làm việc vì miếng ăn hay hư nát nhưng vì thức ăn còn đến sự sống vĩnh phúc mà Con Người sẽ ban cho các ngươi. Đức Chúa Trời là Cha đã ấn chứng cho Người!” Họ thưa: “Chúng tôi phải làm gì để được làm việc của Đức Chúa Trời?” Đức Giê-su đáp: “Làm việc của Đức Chúa Trời là tin Đấng mà Ngài đã sai đến.” Họ nói với Ngài: “Vậy Thầy tự làm dấu lạ gì cho chúng tôi thấy để tin Thầy? Thầy sắp thi thố việc gì đây? Tổ phụ chúng ta ăn bánh ma-na trong đồng hoang, đúng như Kinh Thánh chép: ‘Họ ăn bánh từ trời ban xuống.’ ” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Không phải Môi-se cho các ngươi bánh từ trời đâu, nhưng thật chính Cha Ta mới là Đấng ban cho các ngươi bánh từ trời! Vì bánh của Đức Chúa Trời là bánh từ trời xuống, cung ứng sự sống cho loài người.” Họ nói: “Thưa Thầy, xin cứ luôn luôn ban cho chúng tôi thứ bánh ấy!” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta là bánh hằng sống, ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, còn ai tin Ta sẽ chẳng bao giờ khát! Nhưng Ta đã nói với các ngươi, dù thấy Ta nhưng các ngươi vẫn không chịu tin. Tất cả những gì Cha cho Ta sẽ đến với Ta, ai đến với Ta, Ta sẽ không bao giờ xua đuổi! Vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta. Và đây là ý Đấng đã sai Ta, ấy là tất cả những người Cha đã cho Ta, Ta sẽ không để cho hư mất, nhưng Ta sẽ làm cho sống lại trong ngày cuối cùng. Vì đây là ý Cha Ta, ấy là người nào nhận ra Con và tin theo Ngài thì sẽ được sự sống vĩnh phúc, và chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng!” Thế là người Do Thái bắt đầu thì thầm bàn tán với nhau vì câu Ngài nói: Ta là bánh từ trời xuống. Họ bảo: “Người này không phải là Giê-su con Giô-sép sao? Cha mẹ anh ấy chúng ta đều biết cả, sao bây giờ lại dám nói: Ta từ trời xuống?” Đức Giê-su đáp: “Đừng xầm xì với nhau nữa! Không một ai có thể đến với Ta nếu không được Cha là Đấng đã sai Ta đem đến và Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng! Kinh Tiên Tri chép: ‘Mọi người sẽ được Đức Chúa Trời chỉ dạy.’ Người nào lắng nghe Cha và học theo thì đến với Ta. Không ai thấy được Cha, ngoài Đấng ở cùng Đức Chúa Trời, chính Đấng ấy đã thấy Cha. Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Người nào tin thì được sự sống vĩnh phúc. Chính Ta là bánh hằng sống. Tổ phụ các ngươi đã ăn bánh ma-na trong đồng hoang rồi cũng chết. Còn đây là bánh từ trời xuống để người nào ăn khỏi phải chết. Chính Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, người nào ăn bánh này sẽ sống đời đời. Và bánh mà Ta sẽ ban để loài người được sống chính là thân xác Ta.” Người Do Thái liền cãi vã với nhau rằng: “Làm sao người này có thể lấy thân xác mình cho chúng ta ăn được?” Đức Giê-su nói: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Các ngươi sẽ không có được sự sống trong mình cho đến chừng các ngươi ăn thịt của Con Người và uống huyết của Người. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì được sự sống vĩnh phúc, còn chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. Vì thân xác Ta thật là thức ăn và huyết Ta thật là thức uống. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì ở trong Ta và chính Ta ở trong người ấy. Vì như Cha hằng sống đã sai Ta và Ta nhờ Cha mà sống, thì người nào ăn lấy Ta cũng sẽ nhờ Ta mà sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, nào phải như thứ bánh tổ phụ đã ăn rồi cũng chết. Người nào ăn bánh này sẽ sống đời đời.” Đức Giê-su dạy những điều này tại hội đường ở Ca-pha-na-um. Nhiều môn đệ của Ngài nghe vậy thì nói: “Lời này sao khó nghe quá, ai chấp nhận nổi?” Nhưng Đức Giê-su tự biết các môn đệ đang càu nhàu về việc đó, liền bảo họ: “Điều này làm các con bất mãn sao? Nếu các con được thấy Con Người thăng thiên về nơi Ngài ở trước kia thì sao? Thần linh mới tạo nên sự sống, còn thể xác chẳng ích gì cả! Những lời Ta truyền cho các con là thần linh và sự sống. Dầu vậy giữa vòng các con vẫn có người không tin.” Vì ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những ai không tin và người nào sẽ phản bội Ngài, Ngài lại phán: “Vì vậy Ta đã bảo các con rằng nếu Cha không cho thì không một ai có thể đến với Ta được!” Từ đó, nhiều môn đệ của Ngài rút lui, không theo Ngài nữa. Đức Giê-su mới hỏi mười hai sứ đồ: “Các con cũng muốn bỏ đi chứ?” Si-môn Phê-rơ đáp: “Thưa Chúa, chúng con còn theo ai nữa? Chúa có lời sự sống vĩnh phúc! Chúng con đã tin và biết chắc chính Chúa là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta đã chẳng chọn các con là mười hai người sao? Thế mà một người trong các con lại là quỷ!” Đây Ngài nói về Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, vì hắn ta sắp phản bội Ngài (dù là một người trong mười hai sứ đồ). Đức Giê-su Giảng Trong Kỳ Lễ Lều Tạm Sau các việc ấy, Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê; Ngài không muốn lui tới miền Giu-đê nữa vì người Do Thái đang âm mưu giết Ngài. Gần đến kỳ lễ Lều Tạm của người Do Thái, các em trai của Đức Giê-su nói với Ngài: “Sao anh không rời đây mà lên Giu-đê để các môn đệ anh được thấy những việc anh làm? Vì có ai muốn được nhiều người biết mà lại làm việc một cách kín đáo? Đã làm được những việc này thì anh nên ra mặt cho thiên hạ biết đi!” Vì các em Ngài không tin theo Ngài, nên Đức Giê-su bảo họ: “Thời điểm của Ta chưa tới, nhưng đối với các ngươi, thì giờ nào cũng thuận tiện. Thiên hạ làm sao ghét các ngươi được, nhưng họ ghét Ta, vì chính Ta đã làm chứng rằng những việc họ làm là gian ác. Các ngươi cứ lên dự lễ; Ta chưa lên dự kỳ lễ này đâu, vì giờ của Ta chưa tới!” Sau khi nói những lời ấy, Ngài nán lại xứ Ga-li-lê. Sau khi các em Ngài đã lên dự lễ rồi, thì chính Ngài cũng đi, nhưng kín đáo chứ không công khai. Trong kỳ lễ, người Do Thái đi tìm Ngài và hỏi nhau: “Người ấy đâu rồi?” Đám đông xì xào bàn tán nhiều về Ngài. Người thì nói: “Ông ấy là người nhân đức!” Kẻ khác lại bảo: “Không phải đâu, ông ấy chỉ mị dân!” Tuy nhiên, không ai dám nói công khai về Ngài vì sợ người Do Thái. Đến giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên đền thờ giảng dạy. Người Do Thái kinh ngạc bảo nhau: “Người này không học mà sao lại hiểu biết kinh sách như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Giáo lý Ta dạy không phải của Ta mà là của Đấng đã sai Ta đến! Người nào chịu làm theo ý Ngài sẽ biết giáo lý này đến từ Đức Chúa Trời hay là chính Ta tự nói ra. Kẻ tự ý mình mà nói thì chỉ tìm danh vọng riêng cho mình. Còn người lo tôn vinh Đấng đã sai mình mới là người chân thật, không có gì bất chính. Môi-se đã chẳng ban bố Kinh Luật cho các ngươi sao? Thế mà không một ai trong các ngươi vâng giữ Kinh Luật ấy. Sao các ngươi lại tìm cách giết Ta?” Đoàn dân trả lời: “Ông bị quỷ nhập rồi, chứ có ai tìm giết ông đâu!” Đức Giê-su nói: “Ta mới làm một việc mà tất cả các ngươi đều đã kinh ngạc. Vì Môi-se đã truyền cho các ngươi lễ cắt bì (thật ra, không phải Môi-se mà các tổ phụ truyền lại), nên các ngươi làm lễ cắt bì cho người ta trong ngày Sa-bát. Người ta được phép chịu lễ cắt bì trong ngày Sa-bát mà vẫn khỏi phạm luật Môi-se, thì cũng trong ngày Sa-bát, Ta chữa lành toàn thân một người, sao các ngươi lại tức giận với Ta? Đừng xét theo bề ngoài nhưng hãy lấy lẽ công minh mà xét!” Vậy, vài người dân thành Giê-ru-sa-lem hỏi nhau: “Đây không phải là người mà họ đang tìm cách giết sao? Kìa, sao người ấy phát biểu công khai mà không ai nói gì cả? Hay là cấp lãnh đạo đã biết người này thật là Chúa Cứu Thế? Khi Chúa Cứu Thế xuất hiện thì không ai biết Ngài từ đâu đến, còn người này chúng ta đã rõ lai lịch!” Đang giảng dạy trong đền thờ, Đức Giê-su liền lên tiếng nói rằng: “Phải, các ngươi biết Ta và biết Ta từ đâu đến! Ta không tự mình đến đây, nhưng có Đấng Chân Thật đã sai Ta mà các ngươi không biết. Còn Ta thì biết Ngài vì Ta từ Ngài mà đến và Ngài là Đấng đã sai Ta.” Vậy, họ tìm cách bắt Ngài, nhưng chưa ai ra tay được, vì giờ của Ngài chưa tới. Tuy nhiên, nhiều người trong đoàn dân tin Ngài và nói: “Khi Chúa Cứu Thế đến, chắc gì đã làm được nhiều dấu lạ hơn người này!” Âm Mưu Bắt Chúa Những người Pha-ri-si nghe đoàn dân xì xào bàn tán về Ngài như vậy, liền cùng với các thượng tế sai thuộc hạ đi bắt Ngài. Đức Giê-su nói: “Ta còn ở với các ngươi ít lâu nữa rồi Ta sẽ đi về cùng Đấng đã sai Ta. Dù các ngươi có tìm Ta cũng chẳng gặp, vì các ngươi không thể đến được nơi Ta ở!” Người Do Thái bảo nhau: “Người này sắp đi đâu mà chúng ta sẽ không gặp được? Hay ông ta đi đến với kiều bào tản lạc ở hải ngoại giữa vòng người Hy Lạp để giảng dạy cho người Hy Lạp nữa? Ông ta ngụ ý gì mà lại nói rằng: Các ngươi có tìm Ta cũng chẳng gặp được và các ngươi không thể đến nơi Ta ở?” Nước Hằng Sống Đến ngày cuối là ngày trọng thể của kỳ lễ, Đức Giê-su đứng lên, phán: “Người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống! Người nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ tuôn trào từ cõi lòng người ấy, như Kinh Thánh đã nói.” Đức Giê-su nói điều này để chỉ về Thánh Linh mà những người tin Ngài sắp nhận lãnh. Thật ra, Thánh Linh chưa được ban vì Đức Giê-su chưa được hiển vinh. Nghe những lời này, một số người trong đoàn dân bảo: “Người này chính thật là vị tiên tri!” Số khác lại nói: “Người này chính là Chúa Cứu Thế!” Nhưng cũng có những người khác thắc mắc: “Chúa Cứu Thế mà lại xuất thân từ miền Ga-li-lê sao? Kinh Thánh đã chẳng từng dạy rằng Chúa Cứu Thế phải ra từ dòng vua Đa-vít, cùng nguyên quán Bết-lê-hem với vua Đa-vít sao?” Do đó, dân chúng chia rẽ nhau vì cớ Ngài. Một số người muốn bắt giữ Ngài, nhưng chẳng một ai dám ra tay. Khi đám thuộc hạ trở về, các thượng tế và người Pha-ri-si hỏi họ: “Sao không giải hắn đến đây?” Họ đáp: “Chưa bao giờ có ai ăn nói hay như người này!” Người Pha-ri-si hỏi vặn lại: “Chính các ngươi cũng bị lừa sao? Có ai trong bậc quan quyền hay người Pha-ri-si tin hắn đâu? Nhưng đám dân này không biết Kinh Luật thật đáng bị rủa sả!” Trong nhóm Pha-ri-si có Ni-cô-đem là người đã đến gặp Ngài trước đây lên tiếng: “Luật lệ của chúng ta đâu cho phép xét xử một người trước khi nghe người ấy nói và biết việc người ấy làm?” Họ đáp: “Ông cũng xuất thân từ Ga-li-lê sao? Cứ tra cứu Kinh Thánh ông sẽ thấy rõ rằng không một vị tiên tri nào của Chúa xuất thân từ Ga-li-lê cả!” Thế là mọi người bỏ đi, ai về nhà nấy. Người Phụ Nữ Ngoại Tình Trong khi đó Đức Giê-su lên núi Ô-liu. Lúc trời vừa sáng, Ngài trở vào đền thờ. Cả đoàn dân đều đến với Ngài và Ngài ngồi xuống dạy dỗ họ. Các giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si giải đến một người đàn bà ngoại tình bắt đứng giữa họ. Họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, nên chiếu theo luật Môi-se, những hạng đàn bà ấy phải bị ném đá xử tử, còn Thầy thì dạy thế nào?” Họ nói vậy cốt gài bẫy Chúa để có lý do cáo tội Ngài. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống, lấy ngón tay viết lên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài đứng lên bảo: “Người nào trong các ngươi chưa từng phạm tội, hãy ném đá người này trước đi!” Rồi Ngài lại cúi xuống viết lên mặt đất. Nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi từng người một, người cao tuổi đi trước, để Ngài ở lại một mình với người đàn bà đang đứng đó. Đức Giê-su đứng lên hỏi: “Hỡi người nữ, những kẻ kiện cáo ngươi đâu cả rồi? Không ai kết tội ngươi sao?” Người đàn bà trả lời: “Thưa ông, không ai cả!” Đức Giê-su bảo: “Ta cũng không kết tội ngươi đâu; hãy đi, từ nay đừng phạm tội nữa!” Đức Giê-su lại phán cùng họ rằng: “Ta là sự sáng của thế giới, người nào theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.” Những người Pha-ri-si bắt bẻ: “Chính ông tự làm chứng về mình, nên lời chứng đó không xác thực.” Đức Giê-su đáp lại: “Cho dù Ta tự làm chứng về mình, lời chứng của Ta vẫn xác thực vì Ta biết mình từ đâu đến và đang về đâu; còn các ông không biết Ta từ đâu đến hay đang về đâu. Chính các ông xét xử theo cách người phàm, còn Ta chẳng xét đoán ai. Nhưng dù Ta có xét xử đi nữa thì sự xét xử của Ta vẫn xác thực, vì không phải một mình Ta, nhưng cùng với Cha là Đấng đã sai Ta đến. Và như trong Kinh Luật của các ông có chép lời chứng của hai người là hợp lệ. Chính Ta tự làm chứng cho Ta và Cha là Đấng đã sai Ta cũng làm chứng cho Ta nữa!” Họ hỏi lại Ngài: “Cha của ông đâu?” Đức Giê-su đáp: “Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta, các ông hẳn đã biết Cha Ta rồi!” Đức Giê-su nói những lời này đang khi dạy trong đền thờ, chỗ kho bạc; và không một ai bắt Ngài vì giờ của Ngài chưa đến. Đức Giê-su lại bảo họ: “Chính Ta sẽ ra đi còn các ông sẽ tìm kiếm Ta, nhưng các ông sẽ chết trong tội lỗi mình. Các ông không thể đến được nơi Ta sắp đi!” Thế là người Do Thái bảo nhau: “Liệu ông ấy sắp tự tử hay sao mà nói: Nơi Ta đi, các ngươi sẽ không thể nào đến được?” Ngài giải thích: “Các ông xuất thân từ hạ giới, còn Ta từ thượng giới; các ông từ thế gian này mà ra, còn Ta thì không phải từ thế gian này. Vậy Ta bảo các ông rằng các ông sẽ chết mất trong tội lỗi mình, vì nếu các ông không chịu tin Ta là Đấng Hằng Hữu, thì các ông sẽ chết mất trong tội lỗi mình!” Họ thắc mắc: “Ông là ai?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đã chẳng từng bảo các ông từ lúc ban đầu sao? Ta có nhiều điều để nói và xét xử các ông, nhưng vì Đấng đã sai Ta là chân thật, nên Ta chỉ cần thuật lại cho thế gian những gì Ta đã nghe nơi Ngài!” Họ không hiểu Đức Giê-su đã nói về Chúa Cha cho họ. Đức Giê-su tiếp lời: “Khi nào các ông treo Con Người lên, lúc ấy các ông mới biết rõ Ta chính là Đấng Hằng Hữu. Ta không tự mình làm một việc gì cả, nhưng chỉ truyền lại những gì Cha Ta đã dạy bảo Ta. Và Đấng sai Ta lúc nào cũng ở với Ta; Ngài chẳng bao giờ bỏ Ta một mình, vì Ta luôn làm đẹp lòng Ngài.” Khi Ngài nói những lời này, nhiều người tin theo Ngài. Đức Giê-su bảo những người Do Thái vừa tin theo Ngài rằng: “Nếu các ngươi kiên trì trong đạo Ta dạy thì các ngươi mới thật là môn đệ của Ta. Các ngươi sẽ hiểu biết chân lý và chính chân lý đó sẽ giải phóng các ngươi!” Họ gạn hỏi Ngài: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham, chưa từng làm nô lệ ai, sao Thầy lại bảo chúng tôi sẽ được giải phóng?” Đức Giê-su đáp lại: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Người nào phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Làm thân nô lệ thì không ở đời trong nhà, làm con mới được ở luôn! Vậy, nếu Đức Con giải phóng các ngươi, thì các ngươi mới thật sự được tự do. Ta biết rõ các ngươi là dòng giống Áp-ra-ham, vậy mà các ngươi lại tìm cách giết Ta, chỉ vì lòng các ngươi không dành một chỗ nào cho đạo Ta cả! Ta truyền lại những gì Ta thấy nơi Cha, còn các ngươi thì làm những gì nghe được nơi cha mình.” Họ đáp: “Cha chúng tôi chính là Áp-ra-ham!” Đức Giê-su nói: “Nếu thật là con cháu Áp-ra-ham, các ngươi hẳn đã hành động như Áp-ra-ham rồi! Đàng này các ngươi lại tìm cách giết Ta, người đã nói cho các ngươi sự thật nghe được từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham chẳng làm chuyện đó bao giờ! Các ngươi thường làm những việc cha mình chuyên làm!” Họ cãi: “Chúng tôi đây sinh ra đâu phải là thứ con hoang. Cha duy nhất của chúng tôi là Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Nếu Đức Chúa Trời thật là Cha của các ngươi, hẳn các ngươi đã yêu thương Ta vì chính Ta đã xuất thân từ Đức Chúa Trời và đang ở đây. Ta không tự mình đến đây nhưng chính Ngài đã sai Ta. Tại sao Ta nói mà các ngươi không hiểu? Chỉ tại các ngươi không hiểu nổi đạo Ta! Chính các ngươi xuất thân từ cha mình là quỷ vương và các ngươi làm theo dục vọng của cha mình. Từ ban đầu đến nay, hắn vẫn là tay giết người. Hắn không chịu đứng về phía sự thật, vì trong người hắn làm gì có sự thật! Khi hắn nói dối là hắn làm theo bản tính hắn, vì hắn chính là kẻ nói dối và là ông tổ của nói dối! Còn Ta đây nói lên sự thật, thế mà các ngươi lại không chịu tin Ta. Có ai trong vòng các ngươi vạch tội Ta được không? Ta nói sự thật mà các ngươi vẫn không tin Ta? Người nào thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Sở dĩ các ngươi không nghe chỉ vì các ngươi không thuộc về Đức Chúa Trời.” Mấy người Do Thái gạn hỏi: “Chúng tôi bảo ông chính là hạng người Sa-ma-ri và đang bị quỷ ám, không đúng sao?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đây chẳng có một quỷ nào ám cả mà chỉ đang suy tôn Cha Ta, còn các ngươi cứ nhục mạ Ta. Chính Ta không tìm vinh quang cho riêng mình, đã có Đấng lo tìm và định liệu cho Ta. Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết!” Người Do Thái liền tiếp: “Bây giờ chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám thật rồi! Áp-ra-ham đã chết, các tiên tri của Chúa cũng không còn, vậy mà ông lại nói người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết. Chẳng lẽ ông hơn cả tổ Áp-ra-ham của chúng ta và các tiên tri đã qua đời rồi sao? Ông tự cho mình là ai?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta tự tôn vinh ta thì chẳng vinh quang gì! Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là Đấng các ngươi vẫn xưng tụng là Đức Chúa Trời của mình, nhưng các ngươi có biết Ngài đâu, còn chính Ta mới thật biết Ngài! Nếu Ta bảo Ta không biết Ngài, thì Ta cũng dối trá như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài và vâng giữ đạo Ngài. Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi từng hớn hở trông mong được thấy ngày của Ta, người đã thấy và mừng rỡ!” Mấy người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa đầy năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham rồi sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Trước khi có Áp-ra-ham Ta hằng hữu!” Họ liền lượm đá để ném Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh mặt, rời khỏi đền thờ. Người Mù Bẩm Sinh Được Sáng Dọc đường đi, Đức Giê-su thấy một người mù từ thuở sinh ra. Các môn đệ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, vì tội của ai? Của anh này hay của cha mẹ mà anh ta phải chịu sinh ra mù lòa?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng phải vì anh ta hay cha mẹ phạm tội đâu, nhưng để việc làm của Đức Chúa Trời được thể hiện trong người ấy. Khi còn ban ngày, chúng ta phải làm những công tác của Đấng đã sai Ta đến, kẻo khi đêm xuống, không ai làm việc được nữa! Đang khi còn ở thế gian, Ta là sự sáng của thế gian.” Nói xong, Ngài nhổ nước bọt xuống đất hòa thành bùn, rồi xức bùn ấy vào mắt người mù và bảo: “Hãy đến rửa ở ao Si-lô-am”, Si-lô-am có nghĩa là “được sai đi”. Vậy người ấy đi ra ao, rửa, rồi trở lại thì được thấy rõ. Hàng xóm láng giềng và những người vẫn thường thấy anh ta ăn xin trước kia hỏi nhau: “Có phải anh này là người hay ngồi ăn xin không?” Một số thì bảo đúng là anh ta, số khác lại nói: “Không phải, một người nào đó giống hắn!” Anh ta lên tiếng: “Chính tôi đây mà!” Họ liền hỏi anh: “Vậy thì làm sao mắt ngươi được sáng?” Anh ta trả lời: “Một người tên là Giê-su hòa bùn xức lên mắt tôi và bảo tôi đi đến ao Si-lô-am rửa cho sạch. Tôi đi rửa thì thấy được.” Họ hỏi tiếp: “Người ấy ở đâu?” Anh ta trả lời: “Tôi không biết!” Họ dẫn người vốn bị mù đến với các người Pha-ri-si. Hôm Đức Giê-su hòa bùn chữa cho người này sáng mắt là ngày Sa-bát. Người Pha-ri-si lại chất vấn: “Sao ngươi thấy được?” Anh ta trả lời: “Ông ấy bôi bùn lên mắt tôi, tôi đi rửa thì thấy được!” Một vài người trong nhóm Pha-ri-si liền nói: “Người này không thể nào đến từ Đức Chúa Trời vì đã không kiêng giữ ngày Sa-bát.” Nhưng một số người khác lại lý luận: “Làm sao một người có tội có thể làm dấu lạ như vậy được?” Thế là họ chia phe chống nhau. Vậy nên những người Pha-ri-si vặn hỏi người mù một lần nữa: “Theo ngươi thì người đã chữa lành mắt ngươi là ai?” Anh ta đáp: “Ấy là một vị tiên tri.” Nhưng các người Do Thái không chịu tin rằng anh ta vốn mù mà nay lại thấy được, cho đến khi họ đòi cha mẹ người vừa được sáng mắt đến. Họ tra hỏi: “Đây có phải là con của ông bà đã bị mù từ khi sinh ra không? Làm sao bây giờ nó thấy được?” Cha mẹ anh ta thưa: “Chúng tôi nhận đây chính là con chúng tôi mù từ lúc mới sinh, nhưng làm sao nó thấy được thì chúng tôi không biết, hay ai mở mắt nó, chúng tôi cũng không hay. Các ông cứ hỏi nó, nó lớn rồi, việc nó để nó khai!” Cha mẹ anh ta nói như vậy, vì sợ người Do Thái; bởi người Do Thái đã quyết định khai trừ khỏi hội đường người nào xưng Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế. Cho nên cha mẹ anh ta mới nói: “Nó lớn rồi, cứ hỏi nó.” Họ lại đòi người vốn bị mù ra một lần nữa và bảo: “Có Trời chứng giám,9:24 Ctd: Vinh quang quy về Đức Chúa Trời. Một lối thề thốt của người Do Thái chúng ta biết người ấy là một tội nhân!” Anh ta thưa lại: “Người ấy có là tội nhân hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều, trước tôi mù mà nay thấy được!” Họ hỏi tiếp: “Người ấy đã làm gì cho ngươi? Làm thế nào mắt ngươi sáng được?” Anh ta thưa: “Tôi đã nói rồi mà các ông không chịu nghe. Sao các ông còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ chính các ông cũng muốn thành môn đệ của người sao?” Họ mắng anh ta: “Mầy mới là môn đệ của hắn, còn chúng ta là môn đệ của Môi-se! Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, còn tên này chúng ta không biết gốc gác từ đâu.” Anh ta nói: “Chuyện lạ thật! Người đã làm cho mắt tôi sáng mà các ông lại không biết gốc gác từ đâu. Chúng ta đều biết Đức Chúa Trời chẳng nghe người có tội mà chỉ đoái nghe những người kính sợ Đức Chúa Trời và làm theo ý Ngài. Xưa nay, đời nào có chuyện một người mở mắt cho kẻ mù bẩm sinh. Nếu người này không phải đến từ Đức Chúa Trời thì làm sao làm nổi chuyện này?” Họ đáp: “Mầy sinh ra tội lỗi đầy mình mà còn đòi dạy khôn chúng ta sao?” Rồi họ đuổi anh đi. Đức Giê-su nghe họ đuổi anh ấy đi, nên tìm anh hỏi: “Ngươi có tin Con Người không?” Anh ta đáp: “Thưa Ngài, Con Người là ai để tôi tin?” Đức Giê-su bảo: “Ngươi đã thấy Con Người tận mắt và Người đang nói với ngươi đây chính là Đấng ấy!” Người ấy nói: “Lạy Chúa, tôi tin!” rồi sấp mình lạy Ngài. Đức Giê-su phán: “Vì sự phán xét Ta đã đến thế gian này: Người không thấy thì được thấy, còn kẽ thấy thì hóa mù!” Mấy người Pha-ri-si có mặt ở đó nghe vậy liền hỏi: “Ông bảo chúng tôi mù cả sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu các ông mù thì chẳng có tội gì, nhưng vì các ông cho mình là sáng nên tội các ông vẫn còn!” Người Chăn Nhân Từ Thật vậy, Ta bảo các ngươi: “Kẻ nào không bởi cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo từ ngả khác, là kẻ trộm cướp. Còn người bởi cửa mà vào mới là người chăn chiên. Người gác cổng mở cửa cho người chăn và đàn chiên nhận ra tiếng người. Người chăn gọi đích danh từng con chiên mình để dẫn ra ngoài. Khi đã đem chiên ra hết, người chăn đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. Chiên không theo người lạ nhưng bỏ chạy, vì chiên không quen tiếng người lạ.” Đức Giê-su dùng ngụ ngôn này nói với họ, nhưng họ không hiểu Ngài ngụ ý gì. Nên Đức Giê-su tiếp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Chính Ta là cửa của chuồng chiên. Tất cả những kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp, nhưng chiên không nghe theo họ. Chính Ta là cửa: Ai qua Ta mà vào sẽ được cứu. Người ấy vào, ra và tìm được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Ta đã đến để chiên được sống và sống sung mãn. Ta là người chăn nhân từ. Người chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Kẻ chăn thuê không phải là người chăn; chiên không thuộc về nó, nên thấy muông sói đến nó bỏ chiên chạy trốn; muông sói vồ bắt và đuổi chiên tan lạc. Vì là kẻ chăn thuê, nên nó chẳng quan tâm gì đến chiên. Ta là người chăn nhân từ, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha vậy. Ta hy sinh tính mạng mình vì chiên. Ta còn có những chiên khác không thuộc bầy này, Ta cũng phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe theo tiếng Ta. Như vậy, sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn. Cha đã yêu thương Ta chính vì Ta chịu hy sinh tính mạng, rồi sau được lấy lại. Không ai lấy được tính mạng Ta, nhưng chính Ta tự hiến. Ta có quyền hy sinh tính mạng và có quyền lấy lại. Đây là mạng lệnh Ta nhận từ Cha Ta.” Người Do Thái lại chia phe nghịch nhau vì những lời ấy. Trong vòng họ có nhiều người nói: “Hắn ta bị quỷ ám, điên rồi, các anh nghe hắn làm gì!” Một số khác lại bảo: “Người bị quỷ ám không thể nói được những lời lẽ ấy? Quỷ làm sao mở mắt người mù?” Lúc ấy nhằm lễ Cung Hiến10:22 Lễ kỷ niệm dâng hiến đền thờ Giê-ru-sa-lem tại Giê-ru-sa-lem. Trời vào tiết đông, Đức Giê-su đang đi dạo trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang Sa-lô-môn. Người Do Thái tụ họp quanh Ngài mà hỏi: “Ông để chúng tôi hoang mang cho đến bao giờ? Nếu quả thật ông là Chúa Cứu Thế, hãy nói hẳn ra cho chúng tôi đi!” Đức Giê-su đáp: “Ta bảo các ngươi rồi mà các ngươi vẫn không tin! Những công việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện, chính là bằng chứng cho Ta; thế mà các ngươi cũng không tin, chỉ vì các ngươi không phải là chiên của Ta! Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh phúc, chúng chẳng hư mất bao giờ, và không ai bắt chúng khỏi tay Ta. Cha Ta là Đấng vĩ đại hơn tất cả đã ban cho Ta và không ai có thể bắt nổi chúng khỏi tay Cha.10:29 Một số cổ bản khác chép: Điều gì Cha ban cho ta hùng mạnh hơn cả Ta với Cha là một.” Mấy người Do Thái lại lượm đá để ném Ngài. Đức Giê-su bảo họ: “Những việc lành Ta đã làm đều từ Cha mà đến, vậy thì các ngươi ném đá Ta vì việc gì?” Người Do Thái đáp: “Chúng tôi không ném đá ông vì việc lành ông làm nhưng vì ông phạm thượng: Ông là người mà tự cho mình là Đức Chúa Trời!” Đức Giê-su đáp: “Kinh Luật các ngươi chẳng đã có câu: ‘Ta đã phán: Các ngươi là các thần,’ hay sao? Nếu Đức Chúa Trời đã gọi những kẻ được Lời Ngài phán đến là thần và Kinh Thánh không thể bãi bỏ được, thì Đấng được Cha biệt riêng ra thánh và sai đến trần gian chỉ nói: Ta là Con Đức Chúa Trời, tại sao các ngươi tố cáo Người là phạm thượng? Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm, thì dù các ngươi không tin Ta, hãy tin công việc Ta, để các ngươi hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” Họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ. Ngài lại ra đi, qua bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp-tem trước đây và ở lại đó. Nhiều người đến với Ngài nói rằng: “Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người này đều đúng cả!” Tại đó có nhiều người tin Ngài. Sự Sống Lại Của La-xa-rơ Có một người bị bệnh tên là La-xa-rơ quê ở Bê-tha-ni, là làng của hai chị em Ma-thê và Ma-ri. Ma-ri là người đã đổ dầu thơm xức cho Chúa, rồi lấy tóc mình lau chân Ngài; còn La-xa-rơ, anh nàng, đang bị bệnh. Vậy, hai chị em gửi người đến trình: “Thưa Chúa, người Ngài yêu mến mắc bệnh.” Khi nghe tin, Đức Giê-su lại bảo: “Bệnh này không đến nỗi phải chết, nhưng việc xảy ra để Đức Chúa Trời được hiển vinh và Con của Ngài cũng nhờ đó được hiển vinh!” Đức Giê-su yêu quý Ma-thê, em nàng và La-xa-rơ. Nhưng khi nghe tin La-xa-rơ bệnh, Ngài nán lại nơi đang ở thêm hai ngày nữa! Sau đó, Ngài bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại vùng Giu-đê!” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, người Do Thái mới vừa tìm cách ném đá Thầy mà bây giờ Thầy còn trở lại đó sao?” Đức Giê-su đáp: “Chẳng phải ban ngày có mười hai giờ sao? Người nào đi giữa ban ngày sẽ không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế giới này. Nhưng nếu đi trong đêm tối sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng!” Rồi Ngài nói tiếp: “La-xa-rơ, bạn của chúng ta đang ngủ, nhưng Ta sắp đến đánh thức người dậy.” Các môn đệ nói: “Thưa Chúa, nếu anh ấy ngủ chắc sẽ khỏi bệnh!” Nhưng Đức Giê-su ngụ ý La-xa-rơ đã chết rồi, còn họ lại tưởng Ngài nói về giấc ngủ thường. Cho nên Đức Giê-su mới nói rõ rằng: “La-xa-rơ đã chết rồi! Nhưng vì các con, Ta mừng đã không có mặt ở đó để các con tin. Thôi, chúng ta hãy đi đến cùng người!” Thô-ma, còn có tên Đi-đim, nghĩa là “sinh đôi”, bảo đồng bạn: “Chúng ta hãy cùng đi, dù phải chết thì chết chung với Thầy!” Đến nơi, Đức Giê-su thấy La-xa-rơ nằm trong mộ đã bốn ngày rồi! Bê-tha-ni gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách chừng ba cây số,11:18 Nt: 15 ết-ta-đơ. Mỗi ết-ta-đơ chừng hai trăm mét nên có nhiều người Do Thái trong vùng đến thăm để chia buồn với Ma-thê và Ma-ri. Khi nghe tin Đức Giê-su đến, Ma-thê đi ra đón Ngài, còn Ma-ri vẫn ngồi ở nhà. Ma-thê nói với Đức Giê-su: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con chắc đã không chết! Nhưng con vẫn biết dù bây giờ Ngài cầu xin bất cứ việc gì, Đức Chúa Trời cũng ban cho Ngài cả!” Đức Giê-su bảo nàng: “Anh ngươi sẽ sống lại!” Ma-thê đáp: “Con biết anh ấy sẽ sống lại trong sự phục sinh vào ngày cuối cùng!” Đức Giê-su bảo: “Chính Ta là sự sống lại và sự sống, người nào tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Còn ai sống mà tin Ta sẽ chẳng bao giờ chết, ngươi tin điều ấy không?” Nàng đáp: “Vâng, lạy Chúa, con tin! Con tin Ngài chính là Chúa Cứu Thế, Con của Đức Chúa Trời, Đấng phải đến trần gian!” Nói xong, Ma-thê trở về, gọi Ma-ri ra nói nhỏ: “Thầy đến rồi, đang gọi em đó!” Nghe vậy, Ma-ri vội vàng đứng dậy, đi đến gặp Ngài. Lúc ấy Đức Giê-su chưa vào làng nhưng vẫn còn ở tại chỗ Ma-thê vừa gặp Ngài. Mấy người Do Thái đang ở trong nhà an ủi Ma-ri, thấy nàng vội đứng dậy đi ra ngoài, tưởng nàng đến mộ than khóc anh, nên đi theo. Đến nơi, khi thấy Đức Giê-su, Ma-ri quỳ dưới chân Ngài nói: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con đã không chết!” Đức Giê-su thấy Ma-ri khóc và những người Do Thái cùng đi với nàng cũng khóc, thì xót xa trong lòng, và hỏi: “Các ngươi đặt anh ấy nằm ở đâu?” Họ đáp: “Thưa Chúa, mời Ngài đến xem!” Đức Giê-su khóc! Mấy người Do Thái bảo nhau: “Kìa, ông ấy thương La-xa-rơ biết bao!” Nhưng cũng có vài người nói: “Ông ta đã làm cho mắt người mù được sáng, lại không có thể làm cho người này khỏi chết sao?” Đức Giê-su lại xót xa trong lòng, bước đến trước mộ. Đây là một cái hang có tảng đá chặn lại. Đức Giê-su bảo: “Hãy lăn tảng đá ra!” Ma-thê, em gái người chết nói: “Thưa Chúa, đã có mùi vì người chết đã bốn ngày rồi!” Đức Giê-su bảo Ma-thê: “Ta đã chẳng bảo ngươi rằng nếu có lòng tin, ngươi sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời sao?” Họ lăn tảng đá ra. Đức Giê-su ngước mắt lên nói rằng: “Thưa Cha, con cảm ơn Cha vì đã nhậm lời con! Con biết Cha luôn luôn nghe lời con cầu xin, nhưng con phải nói ra vì đám đông đang đứng quanh đây, để họ tin rằng chính Cha đã sai con đến!” Sau đó, Ngài gọi lớn tiếng: “La-xa-rơ! Hãy ra đây!” Người chết đi ra, tay chân vẫn còn quấn vải liệm, mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo họ: “Hãy tháo ra cho anh ấy đi!” Nhiều người Do Thái đến thăm Ma-ri, thấy việc Ngài làm, thì tin Ngài; nhưng vài người trong đám họ đi đến các người Pha-ri-si, thuật lại việc Đức Giê-su đã làm. Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si liền họp hội đồng bảo nhau: “Người này làm quá nhiều dấu lạ, chúng ta phải tính sao đây? Nếu chúng ta cứ để yên như vậy, mọi người sẽ tin theo hắn, rồi quân La Mã sẽ đến chiếm nơi này và cả quê hương xứ sở chúng ta!” Nhưng một người trong nhóm là Cai-pha, đang giữ chức vụ trưởng tế năm đó, lý luận: “Quý vị chẳng hiểu gì cả! Sao không nghiệm ra rằng: Thà để một người chết thay cho dân hơn là cả dân tộc phải bị hủy diệt?” Không phải ông ta tự mình thốt ra như vậy, nhưng vì là vị trưởng tế, nên ông nói tiên tri về việc Đức Giê-su sắp phải chết vì dân; chẳng những vì dân này thôi đâu, mà còn để hợp nhất các con cái của Đức Chúa Trời đang bị tản lạc. Từ ngày đó trở đi, họ âm mưu giết Ngài. Vì vậy, Đức Giê-su không còn công khai đi lại giữa vòng người Do Thái, nhưng lánh đến vùng gần đồng hoang, vào một thành tên là Ép-ra-im, ở đó với các môn đệ Ngài. Lúc ấy, gần đến ngày lễ Vượt Qua của người Do Thái, dân chúng từ khắp các miền lên Giê-ru-sa-lem để chịu thanh tẩy trước kỳ lễ.11:55 Nt: Lễ vượt qua Họ trông ngóng Đức Giê-su nên tụ họp trong đền thờ hỏi nhau: “Anh em đoán sao? Chắc ông ấy sẽ không lên dự lễ đâu, phải không?” Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si đã ra lệnh, hễ ai biết Ngài ở đâu, phải báo cho họ biết để họ bắt Ngài. Chúa Được Xức Dầu (Mat 26:6-13; Mác 14:3-9) Nhưng sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su vẫn đến Bê-tha-ni, nơi có La-xa-rơ, người mà Đức Giê-su đã khiến sống lại. Người ta làm tiệc đãi Chúa tại đó. Ma-thê hầu bàn, còn La-xa-rơ cùng những người khác dự tiệc với Ngài. Lúc ấy, Ma-ri lấy ra một cân dầu cam tùng tinh chất quý giá xức chân Đức Giê-su và lấy tóc mình lau chân Ngài. Mùi thơm tỏa khắp nhà. Nhưng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, môn đệ sau này phản Chúa, lên tiếng: “Sao không đem dầu này đi bán, lấy ba trăm đồng đê-na-ri để bố thí cho kẻ nghèo?” Anh ta nói vậy chẳng phải vì quan tâm gì đến người nghèo, nhưng vì vốn là tay trộm cắp mà lại giữ túi tiền, nên hễ có tiền vào là lấy bớt. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Cứ để yên nàng, vì nàng đã để dành dầu này cho ngày tẩm liệm Ta! Các ngươi lúc nào cũng có người nghèo bên mình, nhưng không có Ta luôn đâu!” Khi người Do Thái biết Đức Giê-su đang có mặt ở đó, họ liền kéo đến thật đông, không những để gặp Ngài, mà cũng để xem La-xa-rơ, người mà Ngài đã khiến sống lại. Nhưng các thượng tế bàn định với nhau để giết cả La-xa-rơ nữa, vì tại ông, nhiều người Do Thái đã bỏ họ mà tin theo Đức Giê-su. Chúa Giê-su Vào Thành Giê-ru-sa-lem (Mat 21:1-11; Mác 11:1-11; Lu 19:28-40) Hôm sau, nghe tin Đức Giê-su cũng lên Giê-ru-sa-lem, đoàn người đông đảo đã về dự lễ, lấy tàu lá chà là ra đón Ngài, tung hô: “Hô-sa-na! Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Vua của Y-sơ-ra-ên!”12:13 Thi 118:25, 26 Tìm được một con lừa con, Đức Giê-su cưỡi lên đúng như Kinh Thánh chép: “Con gái thành Si-ôn đừng sợ nữa! Kìa, Vua ngươi ngự đến, Cưỡi lừa con!”12:15 Xa 9:9 Lúc đầu các môn đệ Ngài chưa hiểu rõ, nhưng về sau, khi Đức Giê-su được hiển vinh, họ mới nhớ lại câu Kinh Thánh trên viết về Ngài và thấy ứng nghiệm đúng cho Ngài. Nhóm người có mặt lúc Ngài gọi La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến ông sống lại cứ tiếp tục làm chứng về việc này. Cũng chính vì nghe nói Ngài làm dấu lạ đó mà đoàn dân đông đảo đã ra nghênh đón Ngài. Nhưng nhóm Pha-ri-si bảo nhau: “Thấy chưa? Các ông chẳng được tích sự gì! Kìa, cả thiên hạ đều kéo theo hắn!” Nhân kỳ lễ này cũng có mấy người Hy Lạp trong số khách hành hương lên thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ đến gặp Phi-líp, người thành Bết-sai-đa, vùng Ga-li-lê, mà thỉnh cầu: “Thưa ông, chúng tôi mong được gặp Đức Giê-su!” Phi-líp đi nói với An-rê, rồi cả An-rê và Phi-líp cùng đến thưa lại với Đức Giê-su. Đức Giê-su đáp: “Giờ phút hiển vinh của Con Người đã đến! Thật vậy, Ta bảo các con: Hạt giống lúa mì gieo xuống đất không chết đi thì hạt giống vẫn hoàn hạt giống, còn nếu chết đi thì mới kết quả thêm nhiều! Ai quý chuộng mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều bỏ mạng sống mình ở đời này sẽ giữ lại được trong cõi sống vĩnh phúc! Người nào phục vụ Ta thì phải theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phục vụ Ta cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Ta sẽ được Cha Ta quý trọng. Giờ đây, tâm hồn Ta phiền não. Ta sẽ nói làm sao? Thưa Cha, xin cứu con khỏi giờ phút này! Nhưng cũng chính vì giờ phút này, nên Con đã đến? Cha ơi, xin hãy tôn vinh danh Ngài!” Bỗng có tiếng đến từ trời rằng: “Ta đã tôn vinh rồi, lại sẽ còn tôn vinh nữa!” Đoàn dân đứng quanh nghe tiếng ấy thì bảo là sấm; những người khác lại nói: “Một thiên sứ vừa nói với Ngài đó!” Đức Giê-su bảo: “Tiếng này đã đến chính vì các con chứ chẳng phải vì Ta! Bây giờ là lúc của sự phán xét thế gian, đây là lúc chúa đời này sẽ phải bị truất quyền. Còn phần Ta, khi thân bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta!” Đức Giê-su bảo vậy để ám chỉ Ngài sắp chịu chết cách nào. Đoàn dân lại nói: “Chính chúng tôi có nghe Kinh Luật dạy rằng Chúa Cứu Thế còn mãi muôn đời, sao Thầy lại nói Con Người phải bị treo lên? Con Người đó là ai vậy?” Đức Giê-su đáp: “Sự sáng chỉ còn ở giữa các ngươi ít lâu nữa mà thôi! Hãy bước đi trong khi các ngươi còn có sự sáng kẻo bóng tối bất chợt bao trùm các ngươi! Người đi trong tối tăm không biết mình đi đâu. Hãy tin cậy nơi sự sáng trong khi các ngươi còn có sự sáng để được trở thành con cái của sự sáng.” Dạy bảo xong, Đức Giê-su ẩn mặt, lánh xa họ. Ngài đã làm bao nhiêu dấu lạ trước mặt họ như vậy mà họ vẫn không chịu tin Ngài, để cho lời tiên tri I-sa được ứng nghiệm: “Lạy Chúa, ai đã tin nhận lời chúng con tường trình, Và cánh tay Chúa đã được tỏ cho ai?”12:38 Isa 53:1 Bởi vì họ không thể nào tin được I-sa đã nói nữa: “Ngài đã làm cho mắt họ mù, lòng họ chai, Để có mắt mà không thấy, Có tâm trí mà không hiểu, Và chẳng hối cải để Ta chữa lành họ!”12:40 Isa 6:10 I-sa đã nói những điều này khi thấy vinh quang Ngài và nói về Ngài. Dù sao, cũng có nhiều người trong giới lãnh đạo tin Ngài, nhưng vì cớ người Pha-ri-si, họ không dám tuyên xưng, sợ bị khai trừ khỏi hội đường; và vì họ chuộng vinh quang của loài người hơn vinh quang của Đức Chúa Trời. Đức Giê-su lên tiếng tuyên bố: “Người nào tin Ta, thật ra không phải chỉ tin Ta, nhưng tin Đấng đã sai Ta đến. Còn người nào thấy Ta chính là thấy Đấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến trong thế gian để những ai tin Ta không còn ở trong tối tăm nữa! Nếu ai nghe lời Ta mà không vâng giữ, thì không phải Ta xét xử kẻ ấy, vì Ta đến không phải để xét xử, nhưng để cứu vớt thế gian. Ai khước từ Ta và không tiếp nhận lời Ta thì đã bị xét xử rồi; chính lời Ta phán dạy sẽ kết án họ trong ngày sau cùng. Vì Ta không tự mình giảng dạy, nhưng Cha là Đấng sai Ta đã truyền cho Ta điều răn phải giảng và phải dạy. Ta biết điều răn Ngài là sự sống vĩnh phúc. Vậy, những lời Ta nói đều do Cha truyền bảo Ta phải nói.” Chúa Rửa Chân Cho Các Môn Đệ Trước kỳ lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết đã đến lúc Ngài phải rời thế gian để trở về cùng Cha. Ngài đã yêu những người của mình trong thế gian, thì Ngài cứ yêu cho đến cùng. Trong bữa ăn tối, quỷ vương đã gieo vào lòng Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, ý tưởng phản bội Ngài. Ngài biết Cha đã trao mọi sự vào tay mình; vì Ngài đã đến từ Đức Chúa Trời lại sắp trở về cùng Đức Chúa Trời, nên Ngài đứng dậy khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, quấn khăn ngang lưng, rồi đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ. Rửa xong, Ngài lấy khăn đã quấn ngang lưng mà lau. Khi đến Si-môn Phê-rơ, ông thưa: “Chúa ơi! Chúa mà lại rửa chân cho con sao?” Đức Giê-su trả lời: “Việc Ta làm bây giờ con chưa hiểu nhưng sau này sẽ rõ.” Phê-rơ thưa lại: “Đời nào con để Chúa rửa chân cho con!” Đức Giê-su đáp: “Nếu không để Ta rửa, con sẽ không có phần gì với Ta cả.” Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, thế thì chẳng những chỉ rửa chân thôi mà còn cả tay và đầu nữa.” Đức Giê-su dạy: “Người tắm rồi thì thân thể đã sạch, nên chỉ cần rửa chân thôi. Các con đã sạch rồi, nhưng không phải tất cả đều trong sạch.”13:10 Nt: không có “đều trong sạch.” Vì Chúa đã rõ ai là người sẽ phản bội Ngài, nên mới nói có người chưa trong sạch. Sau khi đã rửa chân các môn đệ xong, Ngài mặc lại áo ngoài, trở về bàn ăn và hỏi họ: “Các con có hiểu việc Ta vừa làm cho các con không? Các con xưng Ta là Thầy là Chúa, phải lắm, vì chính Ta đúng là như vậy. Đã là Thầy là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì chính các con cũng phải rửa chân cho nhau. Ta đã làm như vậy cốt để làm gương cho các con noi theo. Thật vậy, Ta bảo các con: ‘Tớ không hơn chủ, sứ giả không hơn người sai phái mình.’ Các con biết những điều này và đem ra thực hành thì được phước. Ta không nói về tất cả các con đâu. Ta biết rõ những người Ta chọn, nhưng lời Kinh Thánh này phải ứng nghiệm: ‘Kẻ từng ăn bánh của Ta đã trở gót phản bội Ta.’ Bây giờ, Ta báo trước cho các con để khi sự việc xảy ra, các con sẽ tin chính Ta là Đấng ấy.13:19 Xuất 3:14 Ctd: Hằng Hữu. Câu này là danh hiệu của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước Thật vậy, Ta bảo các con: Ai tiếp người mà Ta sai đến là tiếp rước Ta, còn ai tiếp Ta là tiếp rước Đấng đã sai Ta.” Chúa Báo Trước Âm Mưu Phản Bội (Mat 26:20-25; Mác 14:17-21; Lu 22:21-23) Sau khi Đức Giê-su dạy các điều đó xong, thì tâm thần Ngài bối rối. Ngài nói rõ: “Thật vậy, Ta bảo các con: Một người trong các con sẽ phản Ta.” Các môn đệ nhìn nhau hoang mang, không biết Ngài nói về ai. Một trong các môn đệ là người được Đức Giê-su yêu quý, dựa sát bên Chúa. Si-môn Phê-rơ ra hiệu bảo người hỏi xem Ngài nói về ai. Vậy, người dựa hẳn lên ngực Đức Giê-su, và hỏi Ngài: “Thưa Chúa, ai vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Đó là người Ta sẽ trao miếng bánh mà Ta nhúng đây.” Rồi Ngài lấy một miếng bánh mà nhúng và trao cho Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt. Ngay khi Giu-đa nhận miếng bánh, Sa-tan nhập vào hắn. Đức Giê-su bảo: “Việc ngươi sắp làm hãy làm nhanh lên!” Không một ai ngồi đó hiểu vì sao Ngài lại bảo hắn như thế. Vì Giu-đa giữ túi bạc, nên vài môn đệ tưởng Ngài bảo hắn đi mua sắm cho ngày lễ hay đi bố thí cho kẻ nghèo. Giu-đa nhận miếng bánh, liền ra đi, lúc ấy đã tối. Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su dạy tiếp: “Con Người giờ đây được tôn vinh và Đức Chúa Trời cũng được tôn vinh trong Ngài. Nếu Đức Chúa Trời được tôn vinh trong Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ tôn vinh Con Người trong chính mình và Đức Chúa Trời sẽ thực hiện tức khắc. Hỡi các con trẻ, Ta chỉ còn ở với các con được ít lâu nữa. Rồi các con sẽ tìm kiếm Ta, nhưng bây giờ Ta nhắc cho các con điều Ta đã bảo người Do Thái: ‘Nơi Ta đi các con sẽ không thể đến được.’ Bây giờ Ta truyền cho các con một điều răn mới: ‘Các con hãy yêu thương nhau. Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các con yêu thương nhau, thì nhờ đó mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Ta.’ ” Chúa Báo Trước Phê-rơ Sẽ Chối Ngài (Mat 26:31-35; Mác 14:27-31; Lu 22:31-34) Si-môn Phê-rơ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nơi Ta sắp đi con không thể theo được, nhưng về sau con sẽ theo Ta.” Phê-rơ lại hỏi: “Lạy Chúa, sao hiện giờ con không thể theo được? Con sẵn sàng chết vì Chúa.” Đức Giê-su đáp lại: “Con có thật sẵn sàng chết vì Ta không? Thật vậy, Ta bảo con: Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.” Chúa Là Chính Đạo “Đừng để tâm trí các con bị bối rối. Đã tin Đức Chúa Trời, các con cũng hãy tin Ta nữa. Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở. Nếu không, Ta đã nói cho các con rồi. Ta ra đi để sửa soạn chỗ ở cho các con; nếu Ta đi và sửa soạn một chỗ cho các con, Ta cũng sẽ trở lại đón các con về với Ta, để Ta ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết đường đến nơi Ta đi.” Thô-ma lên tiếng: “Thưa Chúa, chúng con không rõ Chúa đi đâu, làm sao biết đường?” Đức Giê-su đáp: “Ta chính là con đường, chân lý và sự sống, chẳng bởi Ta thì không ai đến cùng Cha được. Nếu các con đã biết rõ Ta, các con cũng sẽ biết rõ Cha Ta. Từ nay, các con biết được Ngài và thấy rõ Ngài.” Phi-líp thưa: “Thưa Chúa, xin chỉ Cha cho chúng con thì cũng đủ rồi.” Đức Giê-su đáp: “Phi-líp, Ta từng ở với các con bấy lâu mà con chưa biết Ta sao? Người nào thấy Ta là đã thấy Cha. Vậy sao con còn nói: Xin chỉ Cha cho chúng con. Con không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao? Những lời Ta truyền dạy các con chẳng phải Ta tự nói ra, nhưng chính Cha là Đấng đang ngự trong Ta thực hiện công việc của Ngài. Khi Ta bảo Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, các con hãy tin lời Ta; bằng không, hãy căn cứ vào những việc Ta làm mà tin vậy. Thật vậy, Ta bảo các con: Người nào tin Ta, thì cũng sẽ làm những việc Ta làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa, vì Ta trở về cùng Cha. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, Ta sẽ làm cho, để Cha được tôn vinh trong Con. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, thì chính Ta sẽ làm cho. Nếu các con yêu kính Ta, các con sẽ giữ các điều răn Ta. Ta sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù Hộ ở cùng các con đời đời. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể tiếp nhận được, vì không thấy Ngài và cũng chẳng biết Ngài. Nhưng chính các con biết Ngài, vì Ngài đang ở với các con và sẽ ở trong các con. Ta không để cho các con mồ côi đâu. Ta sẽ trở lại cùng các con. Chẳng bao lâu, thế gian sẽ không còn thấy Ta nữa nhưng các con sẽ thấy Ta; vì Ta sống thì các con cũng sẽ sống. Trong ngày ấy, các con sẽ biết rằng Ta ở trong Cha Ta như các con ở trong Ta và Ta ở trong các con. Người nào yêu kính Ta thì tiếp nhận và tuân giữ các điều răn Ta. Cha Ta sẽ yêu quý người nào yêu kính Ta. Ta cũng yêu quý người và tỏ bày chính Ta cho người.” Giu-đa (không phải là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt) hỏi: “Thưa Chúa, sao Chúa lại tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian?” Đức Giê-su đáp: “Ai yêu Ta sẽ vâng giữ lời Ta. Cha Ta sẽ yêu người, chúng ta sẽ đến ở với người đó. Ai không yêu Ta thì không giữ lời Ta. Lời mà các con nghe đó chẳng phải của Ta nhưng của Cha là Đấng đã sai Ta. Ta tỏ cho các con những điều này đang khi Ta còn ở với các con. Nhưng Đấng Phù Hộ, tức là Thánh Linh mà Cha nhân danh Ta gửi đến, Ngài sẽ dạy dỗ mọi điều và nhắc lại cho các con nhớ tất cả những gì Ta đã truyền dạy các con. Ta để lại sự bình an cho các con. Ta ban sự bình an Ta cho các con. Sự bình an Ta ban cho các con không phải như của thế gian cho. Lòng các con đừng nao sờn và sợ hãi. Các con đã nghe Ta bảo: Ta sắp ra đi, nhưng Ta sẽ trở lại cùng các con; nếu các con yêu kính Ta, các con hẳn mừng rỡ vì Ta sắp về cùng Cha; Ngài cao trọng hơn Ta. Giờ đây, Ta bảo trước cho các con, để khi những sự việc ấy xảy đến thì các con tin. Ta sẽ không còn nói nhiều với các con nữa vì chúa tể thế gian này sắp đến, nó chẳng có quyền hành gì trên Ta cả. Nhưng để thế gian biết rằng Ta yêu kính Cha, Ta làm theo tất cả những gì Cha truyền bảo. Đứng dậy, chúng ta hãy đi ra khỏi đây.” Ví Dụ Về Cây Nho Và Cành Nho “Chính Ta là cây nho thật, còn Cha Ta là người trồng nho. Nhánh nào trong Ta mà không ra quả thì Ngài cắt bỏ,15:2 Ctd: nhấc lên theo hai học giả R.K. Harrison và James M. Boice và Ngài tỉa sửa những nhánh nào ra quả để càng nhiều quả hơn. Các ngươi được trong sạch rồi, nhờ lời Ta truyền dạy. Hãy cứ ở trong Ta như chính Ta ở trong các con. Như nhánh nho, nếu không liền với cây nho, thì tự nó không ra quả được; khi các con không ở trong Ta thì cũng chẳng kết quả gì. Chính Ta là cây nho, còn các con là nhánh; người nào cứ ở trong Ta và Ta trong người ấy thì chắc sẽ sinh nhiều quả, vì ngoài Ta các con không làm gì được. Nếu ai không ở trong Ta thì bị ném ra ngoài, như nhánh nho lìa khỏi cây nho sẽ khô héo. Người ta sẽ gom lại ném vào lửa thì nó cháy rụi. Nếu các con cứ ở trong Ta và các lời của Ta vẫn ở trong các con, hãy cầu xin điều gì mình ước muốn thì sẽ được. Điều làm Cha Ta được tôn vinh là các con kết được nhiều quả và như thế chứng tỏ là môn đệ Ta. Như Cha đã yêu Ta thể nào thì chính Ta cũng yêu các con thể ấy. Hãy cứ ở trong tình yêu của Ta. Nếu các con vâng giữ điều răn của Ta thì các con sẽ còn ở trong tình yêu của Ta cũng như Ta đã giữ các điều răn của Cha Ta và còn ở mãi trong tình yêu của Ngài. Ta bảo cho các con những điều này để niềm vui của Ta ở cùng các con và niềm vui của các con được đầy trọn.” Luật Yêu Thương “Đây là điều răn Ta truyền: Các con hãy yêu nhau như Ta đã yêu các con. Chẳng có tình yêu nào vĩ đại hơn là tình yêu của người chịu hy sinh tính mạng cho bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Ta nếu các con làm theo điều Ta truyền. Ta không còn gọi các con là đầy tớ nữa, vì đầy tớ không biết điều chủ mình làm; nhưng Ta đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều nghe được nơi Cha, Ta đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Ta, nhưng chính Ta đã chọn các con và sai phái các con, để các con ra đi đạt nhiều thành quả và bông trái của các con tồn tại mãi. Như vậy, bất kỳ điều gì các con nhân danh Ta mà cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho các con. Ta truyền dạy các con những điều này để các con yêu nhau. Nếu thế gian ghét các con, thì hãy biết là họ đã từng ghét Ta trước rồi. Nếu các con thuộc về thế gian này thì thế gian sẽ yêu chuộng người của họ. Nhưng vì các con không thuộc thế gian và Ta đã tuyển chọn các con từ trong thế gian, nên thế gian hẳn sẽ ghét các con. Hãy ghi nhớ lời Ta dạy bảo các con: Không đầy tớ nào hơn chủ mình được. Nếu họ đã bắt bớ Ta thì cũng sẽ bắt bớ các con. Nếu họ đã vâng giữ lời Ta dạy thì cũng sẽ vâng giữ lời các con. Nhưng họ sẽ đối xử với các con như vậy vì danh Ta và cũng vì họ không biết Đấng đã sai phái Ta. Nếu Ta không đến bảo cho họ hay thì họ đã khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ không thể viện cớ gì để bào chữa tội lỗi mình được. Người nào ghét Ta là ghét cả Cha Ta. Nếu Ta không làm giữa họ những việc chưa ai từng làm nổi, thì họ khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ đã thấy rõ mà lại còn ghét Ta cùng Cha Ta. Nhưng việc phải xảy đến như vậy để lời trong Kinh Luật được ứng nghiệm: ‘Họ đã ghét Ta vô cớ.’ Khi Đấng Phù Hộ đến, Đấng từ Cha mà Ta sẽ gửi đến với các con, Ngài là Thần Chân Lý xuất phát từ Cha; chính Ngài sẽ làm chứng về Ta. Và chính các con cũng sẽ làm nhân chứng, vì các con đã ở cùng Ta từ lúc ban đầu.” Công Vụ Của Đức Thánh Linh “Ta đã bảo các con những điều này để các con khỏi vấp ngã.16:1 Ctd: vấp phạm sa ngã Các con sẽ bị trục xuất khỏi hội đường, nhưng sẽ đến lúc ai nấy tưởng rằng giết các con là phục vụ Đức Chúa Trời. Họ làm những việc ấy vì không biết Cha và không biết Ta. Nhưng Ta đã nói cho các con những điều này để đến lúc ấy, các con sẽ nhớ lại là chính Ta đã báo trước rồi. Sở dĩ Ta chẳng nói ra từ ban đầu vì Ta còn ở với các con. Nhưng bây giờ, Ta sắp trở về cùng Đấng đã sai Ta đến, mà không ai trong các con hỏi Thầy đi đâu? Vì Ta nói cho các con những điều này nên lòng các con đầy buồn lo. Nhưng Ta bảo các con sự thật này: Ta ra đi là ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng Phù Hộ sẽ không đến cùng các con. Nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ gửi Ngài đến cùng các con. Khi đến, Ngài sẽ làm thế gian nhận thức về tội lỗi, về lẽ công chính và về sự định tội: Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; về lẽ công chính vì Ta sắp đi về cùng Cha và các con không còn thấy Ta nữa; và về sự định tội vì chúa tể thế gian này đã bị kết án rồi. Ta còn nhiều điều muốn nói với các con nhưng bây giờ các con chưa đủ sức nhận lấy. Nhưng khi nào Ngài là Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con vào chân lý toàn vẹn,16:13 Ctd: tất cả chân lý vì Ngài không tự mình nói ra nhưng chỉ nói những gì Ngài nghe và loan báo cho các con những việc đang xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Ta vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà truyền lại cho các con. Tất cả những gì của Cha đều thuộc về Ta, nên Ta mới nói Thánh Linh sẽ lấy điều thuộc về Ta mà truyền lại cho các con.” Buồn Bã Và Vui Mừng “Chẳng bao lâu nữa các con sẽ không thấy Ta, nhưng rồi ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta.” Vì thế, một số môn đệ của Ngài hỏi nhau: “Ngài bảo chúng ta ‘chẳng bao lâu nữa các con sẽ không thấy Ta’ rồi ‘ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta’, và lại ‘vì Ta sắp về cùng Cha’, là nghĩa gì?” Họ lại tiếp: “Ngài nói ‘chẳng bao lâu’ là thế nào? Chúng ta không hiểu Ngài nói gì đây?” Đức Giê-su biết ý họ muốn hỏi nên Ngài nói: “Các con thảo luận với nhau để tìm hiểu lời Ta dạy ‘chẳng bao lâu nữa các con sẽ không còn thấy Ta rồi lại ít lâu sau sẽ thấy Ta’ là nghĩa gì phải không? Thật vậy, Ta bảo các con: Các con sẽ khóc lóc, than vãn, nhưng thế gian lại vui cười; các con sẽ ưu sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành niềm vui. Người đàn bà đau đớn khi sinh nở vì giờ mình sắp đến, nhưng khi con đã lọt lòng, người mẹ không còn nhớ đến nỗi đau đớn nữa, vì vui mừng thấy con mình đã ra đời. Chính các con giờ đây cũng ưu sầu, nhưng rồi sẽ gặp lại Ta, thì lòng các con sẽ vui mừng và không ai đoạt mất niềm vui của các con được. Ngày ấy, các con không còn phải hỏi Ta điều gì. Thật vậy, Ta bảo các con: Điều gì các con nhân danh Ta cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho. Cho đến bây giờ, các con chưa hề nhân danh Ta cầu xin điều gì cả. Hãy cầu xin đi, các con sẽ nhận được để các con hưởng trọn niềm vui. Lâu nay Ta dùng ẩn dụ dạy bảo những điều này, giờ đây Ta không còn dùng ẩn dụ nữa, nhưng công bố rõ rệt về Cha cho các con. Ngày ấy, các con sẽ nhân danh Ta mà cầu xin, và Ta không còn nói là Ta sẽ cầu thay với Cha cho các con. Bởi Cha yêu mến các con vì các con yêu mến Ta và tin rằng Ta đến từ Đức Chúa Trời. Ta từ Cha xuống trần gian, rồi sẽ rời trần gian về với Cha.” Các môn đệ thưa: “Bây giờ Thầy nói rõ ra, không dùng ẩn dụ nữa. Giờ đây, chúng con biết Thầy am tường mọi điều, không cần có ai phải hỏi thầy, nên chúng con tin Thầy đến từ Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Bây giờ các con tin chưa? Này, thì giờ sắp điểm, thật ra đã điểm rồi, các con sẽ bị tan lạc mỗi người một ngả và bỏ Ta lại một mình; nhưng Ta không đơn độc đâu vì Cha đang ở cùng Ta. Ta bảo cho các con những điều này để các con được bình an trong Ta. Các con sẽ gặp hoạn nạn trong thế gian; nhưng hãy an tâm! Ta đã thắng thế gian rồi.” Lời Cầu Nguyện Của Chúa Cứu Thế Đức Giê-su truyền dạy những điều đó xong, thì ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Thưa Cha, giờ đã điểm, xin tôn vinh Con của Cha để Con cũng tôn vinh Cha, Vì Cha đã ban cho Con thẩm quyền trên tất cả chúng sinh, cốt để Con cũng ban sự sống vĩnh phúc cho mọi người Cha đã giao cho Con. Sự sống vĩnh phúc chính là nhận biết Cha là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và Chúa Cứu Thế Giê-su mà Cha sai đến. Con đã tôn vinh Cha trên đất, đã hoàn tất công việc Cha giao cho Con làm, nên bây giờ thưa Cha, xin chính Cha tôn vinh Con trước mặt Cha bằng vinh quang mà Con vốn có lúc ở cùng Cha, trước khi vũ trụ hiện hữu. Con đã làm sáng tỏ danh Cha giữa những người Cha ban cho Con từ thế gian này. Họ đã thuộc về Cha và Cha ban họ cho Con. Họ đã vâng giữ lời Cha. Giờ đây họ đã biết rõ mọi điều Cha ban cho Con đều do Cha mà đến. Vì nhờ Con đã truyền cho họ mọi lời Cha dạy Con, nên họ tiếp nhận và biết Con thực sự đến từ Cha cùng tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con cầu thay cho họ, không phải cho thế gian, nhưng cho những người Cha đã ban cho Con, vì họ thuộc về Cha. Mọi điều Con có đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha cũng là của Con, và Con được tôn vinh nơi họ. Con không ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn ở lại trong thế gian, còn Con đi về cùng Cha. Thưa Cha Thánh, xin bảo toàn họ trong uy danh Cha mà Cha đã ban cho Con để họ hiệp làm một cũng như chúng ta vậy. Khi còn ở với họ, Con đã giữ gìn họ an toàn trong uy danh của Cha mà Cha đã ban cho Con. Con đã bảo vệ họ, trừ đứa con của sự hủy diệt ra, không một người nào bị hư mất, để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Bây giờ, Con đi về cùng Cha, Con nói những điều này ra trong thế gian để họ hưởng trọn niềm vui mừng của Con; Con truyền lời Cha cho họ. Người đời ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không cầu xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ an toàn khỏi kẻ ác. Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha dùng chân lý thánh hóa họ. Lời Cha chính là chân lý. Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, thì Con cũng sai phái họ trong thế gian. Vì họ mà Con thánh hiến chính mình, để họ cũng được thánh hóa trong chân lý. Không những Con cầu thay cho họ thôi đâu, mà còn cho những người nào tiếp nhận lời họ và tin theo Con nữa. Thưa Cha, Con cầu xin cho họ tất cả đều hiệp làm một cũng như Cha trong Con và Con trong Cha, để họ cũng ở trong Cha và Con. Do đó, thế gian sẽ tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp nhất cũng như Cha với Con là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn hiệp làm một và nhờ đó, thế gian biết rõ là Cha đã sai Con và Cha yêu quý họ như Cha đã yêu Con. Thưa Cha, Cha đã ban họ cho Con và Con muốn Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu Con trước khi tạo lập thế giới. Thưa Cha công chính, thế gian không biết Cha, nhưng Con biết Cha và những người này cũng biết chính Cha đã sai Con đến. Con đã bày tỏ danh Cha cho họ và sẽ còn bày tỏ nữa, để tình yêu Cha dành cho Con ở trong họ và để Con ở trong họ.” Chúa Bị Bắt (Mat 26:47-56; Mác 14:43-50; Lu 22:47-53) Sau khi cầu xin những điều này, Đức Giê-su cùng các môn đệ băng qua khe Kít-rôn, tại đó có một khu vườn, Ngài và các môn đệ vào khu vườn. Giu-đa, kẻ phản nộp Ngài cũng biết chỗ này, vì Chúa thường họp với các môn đệ tại đó. Giu-đa dẫn một đội lính và một số thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-si vào vườn, mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giê-su đã biết mọi việc sắp xảy đến cho Ngài, nên bước ra hỏi họ: “Các ngươi tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Ngài trả lời: “Chính Ta đây.” Giu-đa, kẻ phản nộp Ngài, cũng đang đứng đó với họ. Nghe Ngài bảo: “Chính Ta đây,” họ giật lùi, ngã nhào xuống đất. Ngài lại hỏi họ một lần nữa: “Các ngươi tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Đức Giê-su đáp: “Ta đã bảo các ngươi, chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm bắt Ta hãy để những người này đi.” Việc này nhằm ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha ban cho Con, Con không để mất một ai cả.” Si-môn Phê-rơ sẵn có thanh gươm, nên rút ra chém đứt vành tai bên phải của Man-chu, đầy tớ của vị trưởng tế. Đức Giê xu bảo Phê-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ; chén Cha đã ban cho Ta, Ta không uống sao?” Bị Giải Đến An-ne Thế rồi, đội lính và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của giới chức Do Thái bắt Đức Giê-su trói lại. Họ giải Ngài đến An-ne trước, vì ông là nhạc phụ của Cai-pha, vị trưởng tế đương nhiệm. Chính Cai-pha trước đây đã bàn với giới thẩm quyền Do Thái: “Thà để một người chết thay cho toàn dân vẫn hơn.” Phê-rơ Chối Chúa (Mat 26:69-70; Mác 14:66-68; Lu 22:55-57) Si-môn Phê-rơ và một môn đệ nữa đi theo Ngài. Môn đệ kia nhờ quen biết vị trưởng tế nên vào được trong sân dinh với Đức Giê-su, còn Phê-rơ đứng ngoài cửa. Môn đệ quen biết vị trưởng tế ra nói với cô gái giữ cửa, rồi đưa Phê-rơ vào trong. Cô gái giữ cửa hỏi Phê-rơ: “Ngươi cũng thuộc nhóm môn đệ của người ấy phải không?” Phê-rơ trả lời: “Không phải tôi!” Các gia nhân và đám thuộc hạ đốt một đống lửa rồi đứng sưởi vì trời giá lạnh; Phê-rơ cũng đứng sưởi với họ. Vị Trưởng Tế Tra Hỏi Chúa Giê-su (Mat 26:59-66; Mác 14:55-64; Lu 22:66-71) Vị trưởng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ của Ngài và những giáo lý Ngài dạy dỗ. Đức Giê-su đáp: “Ta đã tuyên bố công khai cho cả thiên hạ. Ta thường dạy dỗ trong các hội đường hay trong đền thờ, nơi tập họp của người Do Thái. Ta chẳng nói điều gì lén lút cả. Sao ông lại hạch hỏi Ta? Hãy tra hỏi những người nghe Ta, xem Ta bảo họ những gì. Chính họ biết rõ những điều Ta dạy dỗ.” Nghe Đức Giê-su nói vậy, một tên thuộc hạ đang đứng bên cạnh vả mặt Ngài mắng rằng: “Sao ngươi dám trả lời vị trưởng tế như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta sai, hãy chỉ ra Ta sai chỗ nào, còn nếu Ta nói phải, sao lại đánh Ta?” Rồi An-ne sai giải Đức Giê-su vẫn còn bị trói, sang trưởng tế Cai-pha. Phê-rơ Lại Chối Chúa (Mat 26:71-75; Mác 14:69-72; Lu 22:58-62) Đang khi Si-môn Phê-rơ đứng sưởi tại đó, mấy người kia hỏi: “Ngươi cũng thuộc nhóm môn đệ của ông ta phải không?” Nhưng Phê-rơ chối: “Không phải tôi!” Một gia nhân của vị trưởng tế, có họ hàng với người bị Phê-rơ chém đứt tai, nói: “Chính ta đã chẳng thấy ngươi ở trong khu vườn với ông ta đó sao!” Phê-rơ lại chối một lần nữa; tức thì gà gáy. Gặp Phi-lát (Mat 27:1-2, 11-31; Mác 15:1-20; Lu 23:1-5, 13-25) Chúng giải Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh thống đốc. Lúc ấy trời còn sớm. Họ không dám vào trong dinh vì sợ bị ô uế, không ăn lễ Vượt Qua được. Cho nên Phi-lát đi ra bên ngoài hỏi: “Các ngươi tố cáo người này tội gì?” Họ trả lời: “Nếu hắn không làm ác, chúng tôi đã chẳng giải đến nộp quan.” Phi-lát bảo họ: “Thế thì hãy chiếu luật của các ngươi mà xử tội hắn đi!” Những người Do Thái thưa lại: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai hết.” Việc này xảy ra để ứng nghiệm điều Đức Giê-su đã bảo trước Ngài phải chết cách nào. Phi-lát trở vào trong dinh gọi Đức Giê-su hỏi: “Có phải ngươi là Vua dân Do Thái không?” Đức Giê-su trả lời: “Ông hỏi Ta như vậy hay có ai trình với ông về Ta?” Phi-lát nói: “Ta là người Do Thái sao? Dân tộc ngươi và các thượng tế đã nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì vậy?” Đức Giê-su đáp: “Vương quốc Ta không thuộc thế gian này. Nếu vương quốc Ta thuộc thế gian này, các môn đệ Ta đã chiến đấu để Ta khỏi bị nộp vào tay người Do Thái. Không, vương quốc Ta không thuộc thế gian này.” Phi-lát liền hỏi Ngài: “Vậy ngươi là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ông vừa bảo Ta là vua. Lý do Ta được sinh ra và lý do Ta đến thế gian này là để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe theo tiếng Ta.” Phi-lát hỏi: “Chân lý là gì?” Nói xong, Phi-lát trở ra bên ngoài bảo các người Do Thái: “Ta không tìm được lý do nào để buộc tội người này cả. Nhưng theo tục lệ của các ngươi, ta thường phóng thích cho các ngươi một tù nhân trong dịp lễ Vượt Qua này. Các ngươi muốn ta phóng thích vua dân Do Thái cho các ngươi không?” Họ lại la lớn phản đối: “Không, đừng tha hắn. Xin tha cho Ba-ra-ba.” Ba-ra-ba là một tên cướp. Phi-lát Tra Vấn Chúa Đoạn Phi-lát ra lệnh giải Đức Giê-su đi và sai đánh đòn Ngài. Quân lính bện một mão gai đội lên đầu Ngài, khoác áo choàng màu đỏ sẫm19:2 Mầu hoàng tộc cho Ngài; rồi lần lượt tiến đến trước Ngài chế giễu: “Muôn tâu vua Do Thái.” Họ cũng vả vào mặt Ngài. Phi-lát bước ra ngoài một lần nữa, nói với đoàn dân: “Này ta sẽ đưa người ấy ra đây cho các ngươi biết ta không tìm được lý do nào để tuyên án cả.” Thế là Đức Giê-su bị giải ra, đầu đội mão gai, mình khoác áo đỏ sẫm. Phi-lát bảo họ: “Kìa, hãy nhìn người này.” Vừa khi các thượng tế và đám thuộc hạ thấy Ngài, họ la hét: “Đóng đinh hắn! Đóng đinh hắn!” Phi-lát bảo: “Thế thì các ngươi tự bắt người mà đóng đinh đi. Ta không thấy người này có tội gì cả.” Đám đông la ó: “Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết, vì hắn tự cho mình là Con Đức Chúa Trời.” Phi-lát nghe như thế càng thêm sợ hãi. Ông ta trở vào nội điện, hỏi Đức Giê-su: “Ngươi từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. Phi-lát nói với Ngài: “Ngươi không chịu nói với ta sao? Hãy nhớ là ta có quyền tha mạng hay đóng đinh ngươi.” Đức Giê-su trả lời: “Ông chỉ có quyền trên Ta khi Đức Chúa Trời ban cho ông quyền đó. Vì vậy người nộp Ta cho ông còn nặng tội hơn.” Từ đấy, Phi-lát tìm cách tha Đức Giê-su, nhưng đám người Do Thái la hét: “Nếu thống đốc tha hắn thì thống đốc không phải là bạn của Sê-sa. Bất kỳ người nào tự xưng là vua đều chống nghịch Sê-sa.” Khi Phi-lát nghe những lời này, ông đưa Đức Giê-su ra ngoài, và ngồi xử tại chỗ gọi là Nền Lát Đá (tiếng Do Thái là Ga-ba-tha). Hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của Lễ Vượt Qua, khoảng giữa trưa. Phi-lát nói với dân chúng: “Nhìn đây, Vua của các ngươi.” Họ gào thét: “Đóng đinh hắn đi!” Phi-lát hỏi họ: “Các ngươi muốn ta đóng đinh Vua của các ngươi sao?” Các thượng tế trả lời: “Chúng tôi không có một vua nào ngoài Sê-sa.” Vậy, Phi-lát giao Đức Giê-su cho họ đóng đinh. Đức Giê-su Bị Đóng Đinh (Mat 27:32-56; Mác 15:21-41; Lu 23:26-49) Họ liền giải Đức Giê-su đi. Ngài đi ra, vác cây thập tự đi đến chỗ tên là Cái Sọ, tiếng Do Thái gọi là Gô-gô-tha. Tại đó, họ đóng đinh Ngài. Họ cũng đóng đinh hai người khác hai bên, còn Đức Giê-su ở chính giữa. Phi-lát cho viết một tấm bảng treo lên cây thập tự, ghi rằng: “GIÊ-SU NGƯỜI NA-XA-RÉT, VUA DÂN DO THÁI.” Nhiều người Do Thái đọc bảng này vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh gần thành phố. Bảng này được ghi bằng các thứ tiếng Do Thái, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế thưa cùng Phi-lát: “Xin đừng ghi ‘Vua dân Do Thái’ nhưng đổi lại ‘Người này nói: Ta là Vua Do Thái.’ ” Phi-lát trả lời: “Điều ta đã viết đã được viết rồi.” Toán lính đóng đinh Đức Giê-su xong, lấy quần áo Ngài chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Còn áo trong của Ngài, vì dệt nguyên tấm, không có đường may, nên họ bảo nhau: “Đừng xé áo ra nhưng chúng ta hãy bắt thăm xem ai được.” Như vậy để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng chia nhau quần áo tôi Và bắt thăm lấy áo trong của tôi.”19:24 Thi 22:18 Bọn lính đã làm đúng những điều đó. Mẹ của Đức Giê-su và dì của Ngài, Ma-ri vợ của Cơ-lê-ô-ba, cùng Ma-ri Ma-đơ-len đứng gần cây thập tự của Chúa. Đức Giê-su thấy mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu quý đứng đó thì thưa với mẹ: “Xin mẹ nhận người này làm con, hãy nhìn con trai của bà!” Rồi Ngài bảo môn đệ ấy: “Hãy nhìn mẹ của con!” Từ lúc ấy, môn đệ này rước bà về ở với mình. Đức Giê-su biết mọi việc đã hoàn tất để ứng nghiệm Kinh Thánh thì bảo: “Ta khát.” Tại đó có một bình đầy giấm,19:29 Một loại rượu giấm rẻ tiền của dân lao động nên người ta lấy một miếng bọt biển nhúng giấm, gắn vào đầu một cành bài hương đưa lên tận miệng Ngài. Sau khi nếm giấm, Đức Giê-su thốt lên: “Xong rồi.” Đoạn, Ngài gục đầu xuống, trút linh hồn. Vì hôm đó nhằm ngày Chuẩn Bị lễ Vượt Qua, các nhà lãnh đạo Do Thái không muốn xác chết còn trên cây thập tự trong ngày Sa-bát, và vì là ngày Sa-bát trọng đại, nên họ xin Phi-lát cho đánh gãy ống chân những người bị đóng đinh để hạ xác xuống. Quân lính đến đánh gãy ống chân người thứ nhất, rồi đến người kế đang cùng bị đóng đinh với Ngài. Khi đến gần Đức Giê-su, thấy Ngài đã chết rồi, họ không đánh gãy chân Ngài. Nhưng một tên lính lấy giáo đâm vào hông Ngài, tức thì máu và nước chảy ra. Người chứng kiến việc này đã làm chứng. Lời chứng của người là xác thực và người ấy biết mình nói sự thật để anh chị em cũng tin. Những điều này hoàn thành để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Không một cái xương nào của Người bị gãy.”19:36 Thi 34:20 Và một câu Kinh Thánh khác cũng chép: “Người ta sẽ nhìn xem Người họ đã đâm.”19:37 Xa 12:10 Chôn Đức Giê-su (Mat 27:57-61; Mác 15:42-47; Lu 23:50-56) Sau đó Giô-sép, người A-ri-ma-thê, —là môn đệ kín giấu của Đức Giê-su vì sợ người Do Thái—đến xin Phi-lát cho đem xác Đức Giê-su về. Phi-lát cho phép nên ông đến lấy xác Ngài. Ni-cô-đem, người trước kia đã đến thăm Đức Giê-su ban đêm, cùng đi với Giô-sép, mang theo khoảng một trăm cân19:39 Khoảng 34 kg nhựa thơm trộn với lô hội. Hai người đưa xác Đức Giê-su về liệm bằng vải gai tẩm hương liệu theo tục lệ ướp xác của người Do Thái. Tại khu vườn nơi Đức Giê-su bị đóng đinh, có một hang mộ mới chưa đặt xác ai. Vì hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của người Do Thái và ngôi mộ lại ở gần, nên họ đặt xác Ngài tại đó. Chúa Cứu Thế Sống Lại (Mat 28:1-10, 16-20; Mác 16:1-11, 14-18; Lu 24:1-12, 36-49) Ngày thứ nhất trong tuần lễ, lúc trời còn mờ mờ tối, Ma-ri Ma-đơ-len đến mộ, thấy tảng đá chận mộ đã dời đi. Nàng vội chạy đi gặp Si-môn Phê-rơ và môn đệ Chúa yêu quý mà báo: “Họ dời xác Chúa ra khỏi mộ rồi, không biết họ để Ngài ở đâu.” Vậy Phê-rơ và môn đệ kia liền ra xem mộ. Cả hai đều chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn, đến mộ trước, cúi nhìn vào mộ, thấy mấy dải vải dưới đất, nhưng không bước vào. Si-môn Phê-rơ đến sau, bước vào mộ, thấy mấy dải vải nằm đó, còn khăn liệm quấn đầu Chúa không để cùng với mấy dải vải nhưng cuốn lại để riêng một chỗ. Lúc ấy, môn đệ kia đã đến mộ trước, cũng bước vào, thấy thì tin. Họ vẫn chưa hiểu lời Kinh Thánh chép rằng Đức Giê-su phải từ kẻ chết sống lại. Hai môn đệ đi về. Nhưng Ma-ri đứng bên ngoài mộ mà khóc. Vừa khóc, vừa cúi nhìn vào mộ, nàng thấy hai thiên sứ mặc y phục trắng đang ngồi ngay chỗ đã đặt thi hài Đức Giê-su, một vị ngồi phía đầu, một vị phía chân. Hai thiên sứ hỏi: “Hỡi người nữ, sao ngươi khóc?” Nàng đáp: “Họ đã đem Chúa tôi đi đâu mất, không biết để Ngài ở đâu?” Nói xong, nàng quay người lại, thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng không nhận ra Ngài. Đức Giê-su hỏi: “Hỡi người nữ, sao ngươi khóc? Ngươi tìm ai?” Tưởng đây là người làm vườn, nàng khẩn khoản: “Thưa ông, nếu ông dời Ngài đi, xin cho tôi biết ông đặt Ngài ở đâu để tôi đến lấy.” Đức Giê-su gọi: “Ma-ri!” Ma-ri quay lại, kêu lên: “Ra-bu-ni!” Tiếng Do Thái (nghĩa là: Thầy) Đức Giê-su bảo: “Ngươi đừng rờ đến Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha! Nhưng ngươi hãy đi báo tin cho các anh em Ta rằng Ta lên cùng Cha Ta và Cha các ngươi, cùng Đức Chúa Trời Ta và Đức Chúa Trời các ngươi.” Ma-ri Ma-đơ-len đi loan báo cho các môn đệ Ngài rằng: “Tôi đã thấy Chúa” và thuật cho họ nghe những điều Ngài đã bảo nàng. Buổi chiều tối cùng ngày đầu tuần lễ đó, khi các môn đệ đang ở một chỗ đóng kín các cửa vì sợ người Do Thái, Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Nói xong, Ngài đưa tay và hông cho họ xem. Các môn đệ quá vui mừng vì được thấy Chúa. Đức Giê-su lại bảo: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai phái Ta, giờ đây Ta cũng sai phái các con!” Vừa nói Chúa vừa hà hơi trên các môn đệ, truyền bảo: “Hãy nhận lãnh Thánh Linh! Các con tha tội ai thì họ được tha. Các con buộc tội ai thì họ bị buộc tội.” Lúc ấy, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), một trong mười hai sứ đồ, không có mặt với các môn đệ khi Đức Giê-su đến. Nghe các môn đệ kia bảo họ đã thấy Chúa, ông nhất quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở bàn tay Ngài, không đặt ngón tay tôi vào dấu đinh đó và không đặt tay tôi vào hông Ngài, thì tôi không tin!” Tám ngày sau, các môn đệ Chúa lại họp nhau, Thô-ma cũng có mặt. Các cửa đang đóng, nhưng Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Rồi Ngài bảo Thô-ma: “Hãy đặt ngón tay con vào đây và xem hai bàn tay Ta.20:27 Nt: các bàn tay Ta Hãy lấy tay đặt vào hông Ta! Đừng nghi ngờ, nhưng hãy tin!” Thô-ma thưa: “Lạy Chúa của con và Đức Chúa Trời của con.” Đức Giê-su bảo Thô-ma: “Vì con đã thấy Ta con mới tin. Phước cho những người chưa được thấy mà đã tin Ta.” Đức Giê-su thật sự đã làm rất nhiều dấu lạ trước mặt các môn đệ mà không ghi lại trong sách này. Nhưng những điều này được ghi chép để anh chị em tin Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế, là Con của Đức Chúa Trời, và bởi đức tin trong danh Ngài anh chị em được sống. Chúa Hiện Ra Cho Các Môn Đệ Sau những việc ấy, Đức Giê-su lại hiện ra cho các môn đệ tại bờ biển Ti-bê-ri-át. Việc Ngài hiện ra diễn tiến như sau: Si-môn Phê-rơ, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), Na-tha-na-ên, quê ở Ca-na, miền Ga-li-lê, các con trai của Xê-bê-đê và hai môn đệ nữa đang họp nhau. Si-môn Phê-rơ nói: “Tôi đi đánh cá đây!” Mấy người kia đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh!” Họ ra đi, xuống thuyền, nhưng suốt đêm ấy chẳng bắt được gì cả. Trời vừa rạng đông, Đức Giê-su đến đứng trên bờ, nhưng các môn đệ không nhận ra Ngài. Đức Giê-su hỏi họ: “Hỡi các con, không có con cá nào sao?” Họ đáp: “Không.” Ngài bảo: “Hãy thả lưới bên phải thuyền thì sẽ được.” Họ thả lưới thì được quá nhiều cá, nên kéo lên không nổi. Lúc ấy, môn đệ Đức Giê-su yêu quý bảo Phê-rơ: “Chúa đấy!” Vừa nghe bạn nói: “Chúa đấy!” Si-môn Phê-rơ liền lấy áo ngoài mặc vào (vì ông đang ở trần) và nhảy xuống nước. Các môn đệ khác chèo thuyền vào, kéo theo mẻ lưới đầy cá. Họ không cách xa bờ bao nhiêu, chỉ độ hai trăm cu-bít21:8 Khoảng 90m mà thôi. Vừa lên bờ, họ thấy có cá đang nướng trên lửa than và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo họ: “Giờ hãy đem cá các con mới đánh được lại đây!” Si-môn Phê-rơ lên thuyền, kéo lưới đầy cá lớn vào bờ, được một trăm năm mươi ba con. Dù cá nhiều đến thế, mà lưới vẫn không rách. Đức Giê-su bảo họ: “Hãy lại ăn!” Không một môn đệ nào dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” vì họ biết đó là Chúa. Đức Giê-su lại gần, lấy bánh đưa cho các môn đệ, rồi cũng đưa cá nữa. Đây là lần thứ ba Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết. Khi đã ăn xong, Đức Giê-su hỏi Si-môn Phê-rơ: “Si-môn, con của Giô-na! Ngươi yêu kính Ta hơn những người này chăng?” Ông thưa: “Vâng, thưa Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Chúa bảo: “Hãy nuôi dưỡng các chiên con của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ nhì: “Si-môn, con của Giô-na! Ngươi yêu kính Ta chăng?” Ông thưa: “Vâng, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Ngài bảo: “Hãy chăn chiên của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ ba: “Si-môn, con của Giô-na! Ngươi yêu mến Ta chăng?” Phê-rơ đau buồn vì Chúa hỏi mình lần thứ ba: “Ngươi yêu mến Ta chăng?” Nên thưa lại: “Lạy Chúa, Ngài biết tất cả. Ngài hiểu rõ là con yêu mến Ngài.” Đức Giê-su bảo: “Hãy nuôi dưỡng đàn chiên của Ta. Thật vậy, Ta bảo con: Khi còn trẻ, con tự mình thắt dây mặc áo, đi đâu tùy ý; nhưng khi về già, con sẽ giơ tay ra, kẻ khác sẽ thắt lưng cho con và đưa đến nơi mình không muốn.” Chúa nói như vậy để ám chỉ Phê-rơ sẽ chết cách nào để tôn vinh Đức Chúa Trời. Rồi Ngài bảo: “Hãy theo Ta!” Môn Đệ Chúa Yêu Quý Phê-rơ quay lại thấy môn đệ Chúa yêu quý đi theo, là người đã dựa sát ngực Đức Giê-su trong bữa ăn lễ Vượt Qua để hỏi: “Thưa Chúa, ai là người sẽ phản Ngài?” Thấy môn đệ này, Phê-rơ hỏi Đức Giê-su: “Thưa Chúa, còn người này thì sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta muốn người ấy sống mãi cho tới khi Ta đến thì liên hệ gì đến con? Phần con, hãy theo Ta!” Vì thế, có tin đồn giữa các anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su không nói anh ta không chết, Ngài chỉ nói: “Nếu Ta muốn anh ấy sống mãi cho tới khi Ta đến, thì liên hệ gì đến con.” Đây chính là môn đệ đã chứng kiến những việc này và ghi chép lại; chúng ta biết lời chứng của người là thật. Đức Giê-su còn làm nhiều điều khác nữa, nếu ghi chép lại từng điều một, thiết tưởng cả thế giới cũng không chứa nổi các sách phải viết ra.