- New Vietnamese Bible 2014Giô-suêGIÔ-SUÊGiô-suêGiôsGIÔ-SUÊGiới ThiệuSách Giô-suê là câu chuyện về dân Y-sơ-ra-ên chiếm cứ vùng đất Ca-na-an dưới sự lãnh đạo của Giô-suê. Những biến cố quan trọng trong sách này là cuộc vượt sông Giô-đanh, thành Giê-ri-cô bị sụp đổ, trận chiến tại A-hi, cuộc tái lập giao ước giữa Đức Chúa Trời và tuyển dân Ngài. Lời tuyên bố được biết đến nhiều nhất của Giô-suê: “… nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự CHÚA.” 24:15Bố Cục1. Cuộc chiếm cứ Ca-na-an 1:1–12:242. Việc phân chia đất đai 13:1–21:45a. Vùng phía đông Giô-đanh 13:1-33b. Vùng phía tây Giô-đanh 14:1–19:51c. Các thành ẩn náu 20:1-9d. Các thành của người Lê-vi 21:1-453. Các bộ tộc phía đông trở về lãnh thổ của họ 22:1-344. Giô-suê từ giả dân chúng 23:1-165. Lời hứa giữ giao ước tại Si-chem 24:1-33CHÚA Gặp Giô-suêSau khi Môi-se, đầy tớ CHÚA qua đời. CHÚA phán dạy Giô-suê, con trai của Nun, phụ tá của Môi-se: “Môi-se, đầy tớ Ta, đã chết, bây giờ con và tất cả dân chúng hãy sẵn sàng đi qua sông Giô-đanh, vào xứ mà Ta sắp ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Bất luận nơi nào bàn chân con đạp đến thì Ta ban cho các con, như Ta đã hứa với Môi-se. Lãnh thổ các con sẽ trải rộng từ sa mạc và núi Li-ban cho đến Sông Lớn, tức là sông Ơ-phơ-rát, cả nước của người Hê-tít đến tận Biển Lớn phía tây. Suốt đời con, chẳng có ai có thể đứng lên chống lại con. Như Ta đã ở cùng Môi-se, Ta sẽ ở cùng con, Ta sẽ không bao giờ lìa con hay bỏ con đâu.Con hãy mạnh dạn và can đảm lên vì con sẽ lãnh đạo dân này vào hưởng đất mà Ta đã thề ban cho tổ phụ họ. Con hãy mạnh dạn và cực kỳ can đảm! Hãy cẩn thận vâng giữ tất cả Kinh Luật mà Môi-se, đầy tớ Ta, đã truyền cho con. Đừng xây qua bên hữu hoặc bên tả, ngõ hầu con được thành công bất cứ nơi nào con đến. Quyển sách Kinh Luật này chớ xa miệng con, hãy suy gẫm ngày và đêm hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong sách; vì như vậy đường lối con mới được thịnh vượng và thành công. Ta há không có truyền lệnh cho con sao? Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hãi, đừng nản lòng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời con sẽ ở với con trong mọi nơi con đi.”Vậy, Giô-suê ra lệnh cho các người lãnh đạo của dân: “Các ngươi hãy đi khắp toàn quân và bảo dân chúng: ‘Hãy sắm sửa lương thực. Vì ba ngày nữa các ngươi sẽ từ đây vượt qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu xứ mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho các ngươi.’ ”Giô-suê cũng bảo người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se rằng: “Hãy nhớ lại điều Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã dặn các ngươi khi người nói rằng: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cho các ngươi được an nghỉ và đã ban xứ này cho các ngươi. Vợ, con nhỏ và bầy gia súc các ngươi có thể ở lại trong xứ mà Môi-se đã ban cho các ngươi ở phía đông sông Giô-đanh, nhưng tất cả các nam chiến sĩ trang bị khí giới đầy đủ, phải vượt qua sông trước anh em các ngươi. Các ngươi phải giúp đỡ anh em các ngươi đến khi nào CHÚA cho họ an nghỉ như Ngài đã cho các ngươi, và đến khi nào họ cũng đã nhận được đất đai mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho họ. Sau đó, các ngươi sẽ trở về xứ mình, là xứ mà Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã ban cho các ngươi ở phía bên này sông Giô-đanh, về hướng mặt trời mọc, rồi các ngươi sẽ chiếm hữu xứ ấy.’ ”Những người ấy thưa với Giô-suê: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông dặn biểu và đi khắp nơi nào ông sai chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ vâng theo ông trong mọi việc y như đã vâng theo Môi-se. Chỉ mong CHÚA, Đức Chúa Trời ông ở cùng ông như Ngài đã ở cùng Môi-se. Bất cứ ai phản bác lời ông và bất tuân lệnh của ông trong bất cứ việc gì, thì sẽ bị xử tử. Chỉ xin ông hãy mạnh dạn và can đảm.”Ra-háp Và Các Thám TửGiô-suê, con trai Nun bí mật sai hai thám tử ra đi từ Si-tim, ông bảo họ: “Hãy đi trinh sát đất đai, nhất là thành Giê-ri-cô.” Vậy, hai thám tử đi đến nhà của một gái mại dâm tên là Ra-háp và trọ tại đó.Người ta tâu với vua Giê-ri-cô rằng: “Kìa, đêm nay có người Y-sơ-ra-ên đến trinh sát đất nước chúng ta.” Vua Giê-ri-cô sai người ra lệnh cho Ra-háp: “Hãy đem hai người đã vào nhà ngươi ra ngoài, vì họ đến để trinh sát đất nước chúng ta.” (Nhưng Ra-háp đã đem giấu hai người này.)Nàng đáp: “Vâng, các anh ấy đã đến nhà tôi, nhưng tôi không biết họ từ đâu đến. Lúc gần tối, cổng thành gần đóng thì hai người đi ra, tôi không biết đi đâu cả; xin cứ đuổi theo gấp thì các ông sẽ theo kịp được.” (Nhưng Ra-háp đem họ lên mái nhà và giấu dưới những cọng lanh2:6 Một loại sậy trồng để lấy sợi dệt vải mà chị đã rải ở trên mái.) Vậy, những người tầm nã đuổi theo các thám tử trên đường đi tới chỗ cạn của sông Giô-đanh. Vừa khi họ ra đi, cổng thành đóng lại.Trước khi hai thám tử nằm ngủ, Ra-háp leo lên mái nhà mà thưa rằng: “Tôi biết CHÚA đã ban đất nước này cho các ông; chúng tôi vô cùng kinh hoàng; tất cả dân chúng trong nước này đều khiếp sợ các ông. Chúng tôi được tin khi các ông ra khỏi Ai-cập, CHÚA đã khiến nước Biển Đỏ bày ra khô trước mặt các ông, và điều các ông đối xử với Si-hôn và Óc, là hai vua của dân A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh, mà các ông đã tuyệt diệt. Chúng tôi có hay điều đó, lòng bèn tan ra như nước, chẳng ai trong chúng tôi còn can đảm chống lại các ông nữa, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ông là Đức Chúa Trời ở trên trời cao kia và ở dưới đất thấp này. Vậy, bây giờ vì tôi đối xử nhân hậu với hai ông, xin hai ông cũng phải đối xử nhân hậu lại cho nhà cha tôi. Hãy chỉ CHÚA mà thề cùng tôi và cho một dấu hiệu quả quyết là các ông sẽ để cha mẹ, anh em, chị em tôi và tất cả bà con của họ đều được sống, cũng cứu chúng tôi khỏi chết.”Hai thám tử đáp: “Mạng sống chúng tôi đánh đổi các mạng sống của nhà chị. Nếu chị không tiết lộ việc của chúng tôi thì chúng tôi sẽ đãi chị nhân hậu và thành tín khi CHÚA ban đất nước này cho chúng tôi.”Vậy, Ra-háp dùng một sợi dây dòng hai thám tử xuống nơi cửa sổ vì nhà chị ở ngay trên vách thành. Ra-háp nói: “Hãy leo lên núi, kẻo những người đuổi theo bắt gặp các ông; hãy trú ẩn ở đó ba ngày cho đến chừng nào những người tầm nã trở về, sau rồi các ông sẽ lên đường.”Hai người bảo Ra-háp: “Đây là cách chúng tôi thực thi lời thề mà nàng đã bắt chúng ta thề; Khi nào chúng tôi vào xứ, chị phải cột sợi dây đỏ này nơi cửa sổ mà chị đã dòng chúng tôi xuống, rồi tập họp cha mẹ, anh em và tất cả bà con của chị ở trong nhà mình. Bất luận ai trong số người đó đi ra khỏi cửa nhà chị, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu mình, còn chúng tôi vô tội; nhưng nếu ai đưa tay đánh giết người nào đang ở cùng chị trong nhà, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu chúng tôi. Còn nếu chị tiết lộ việc của chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ khỏi mắc lời thề mà chị đã bắt chúng tôi thề.”Ra-háp đáp: “Xin cứ theo lời hai ông đã nói.” Rồi Ra-háp cho hai thám tử ra đi, hai ông liền đi. Ra-háp cột sợi dây nơi cửa sổ mình.Vậy, hai thám tử đi lên núi, ở đó ba ngày cho đến khi những người tầm nã mình quay về. Những người đó kiếm họ suốt đường nhưng không gặp. Hai thám tử liền đi xuống núi trở về; khi họ qua sông Giô-đanh rồi, đến gần Giô-suê, con trai Nun, mà thuật lại cho ông mọi điều đã xảy ra. Hai ông thưa với Giô-suê: “Quả thật CHÚA đã phó cả xứ này vào tay chúng ta, lòng của các dân tộc ấy đều tan ra như nước vì khiếp sợ chúng ta.”Vượt Sông Giô-đanhSáng hôm sau, Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm rời Si-tim đến bờ sông Giô-đanh và cắm trại tại đó trước khi vượt qua sông. Sau ba ngày, các người chỉ huy đi suốt trại quân ra lệnh cho dân chúng: “Khi nào các ngươi thấy Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi dời chỗ, tức là khi các thầy tế lễ người Lê-vi khiêng rương ấy ra đi, thì các ngươi hãy rời chỗ mình đang ở và đi theo Rương ấy. Nhưng phải giữ một khoảng cách với Rương độ hai ngàn am-ma,3:4 Khoảng 900m chứ không được đến gần ngõ hầu các ngươi biết đường phải đi, vì các ngươi chưa đi qua đường này bao giờ.”Giô-suê bảo dân chúng: “Hãy tự thanh tẩy, vì ngày mai CHÚA sẽ làm những việc diệu kỳ giữa các ngươi.”Ông cũng bảo các thầy tế lễ: “Hãy khiêng Rương Giao Ước và đi trước dân chúng.” Họ khiêng Rương Giao Ước lên và ra đi trước dân chúng.CHÚA phán dạy Giô-suê: “Hôm nay Ta sẽ bắt đầu tôn trọng con trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, để họ biết Ta ở với con như Ta đã ở với Môi-se. Con hãy ra lệnh cho các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước: ‘Khi các ngươi đến bờ sông Giô-đanh, hãy đứng dưới sông.’ ”Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Hãy lại gần đây để nghe lời của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Giô-suê tiếp: “Nhờ việc này, các ngươi sẽ ý thức rằng Đức Chúa Trời hằng sống đang ngự giữa các ngươi, chắc chắn Ngài sẽ đuổi khỏi trước mặt các ngươi các dân Ca-na-an, Hê-tít, Hê-vít, Phê-rê-sít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít và Giê-bu-sít. Kìa Rương Giao Ước của CHÚA của cả hoàn cầu sẽ đi qua trước các ngươi vào sông Giô-đanh. Bây giờ, hãy chọn mười hai người trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc một người. Khi nào các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA là Chúa Tể trời đất vừa đặt chân xuống nước sông Giô-đanh, nước sông sẽ chia làm hai, dòng nước từ nguồn chảy về sẽ ngưng đọng và tụ lại thành một khối.”Khi dân chúng nhổ trại để qua sông Giô-đanh, các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đi trước dân chúng. Lúc ấy, nước sông Giô-đanh dâng ngập các bờ suốt mùa gặt. Khi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước vừa đến bờ sông, chân họ vừa chạm đến mé nước, nước sông từ nguồn đổ xuống liền ngừng chảy. Nước dồn lại thành một khối trên một khoảng rất dài ngang thành A-đam, gần Xát-than, trong khi nước hạ lưu cứ chảy xuống Biển A-ra-ba (tức biển Muối). Như thế, dân chúng kéo qua sông, trực chỉ Giê-ri-cô. Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đứng vững vàng trên đất khô giữa lòng sông Giô-đanh, trong khi dân Y-sơ-ra-ên đi qua sông như trên đất khô, cho đến khi dân chúng đều qua hết.Mười Hai Tảng ĐáKhi toàn dân đã qua sông Giô-đanh, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy chọn mười hai người dân, mỗi bộ tộc một người, bảo họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh ngay tại chỗ các thầy tế lễ đang đứng và khiêng theo các con rồi đặt tại nơi các con nghỉ đêm nay.”Vậy, Giô-suê tập họp mười hai người ông đã chỉ định trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc một người và bảo họ: “Các ngươi hãy đi trước Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mà xuống tận giữa sông Giô-đanh. Mỗi người trong các ngươi hãy khiêng một tảng đá trên vai, đúng theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để dùng làm dấu chứng giữa các ngươi. Về sau, khi con cháu các ngươi hỏi: ‘Các tảng đá này có nghĩa gì?’ thì hãy thuật cho chúng về dòng nước sông Giô-đanh bị phân rẽ ra trước Rương Giao Ước của CHÚA; khi Rương qua sông Giô-đanh, nước sông chia đôi và các tảng đá này dùng làm đài kỷ niệm đời đời cho con dân Y-sơ-ra-ên.”Vậy, dân Y-sơ-ra-ên làm theo những điều Giô-suê truyền bảo. Họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh, theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã phán dạy Giô-suê. Họ khiêng đá theo đến nơi hạ trại thì đặt xuống đó. Giô-suê lấy mười hai tảng đá từ giữa lòng sông Giô-đanh đem dựng lên tại nơi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đã đứng. Các tảng đá vẫn còn đó cho đến ngày nay.Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước cứ dừng chân giữa lòng sông Giô-đanh cho đến khi mọi điều CHÚA phán dạy Giô-suê được dân Y-sơ-ra-ên hoàn tất, đúng như Môi-se đã dặn bảo Giô-suê. Dân chúng vội vã kéo qua sông. Vừa khi tất cả đều qua sông hết, Rương Giao Ước của CHÚA và các thầy tế lễ mới đi qua bờ bên kia trước mặt dân chúng. Con cháu Ru-bên, con cháu Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se được vũ trang đều tiến lên dẫn đầu dân Y-sơ-ra-ên, đúng theo lời Môi-se đã dặn bảo. Có độ 40,000 chiến sĩ vũ trang kéo qua sông trước mặt CHÚA, tiến vào các cánh đồng Giê-ri-cô để đánh giặc.Hôm ấy, CHÚA tôn trọng Giô-suê trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên nên họ tôn kính ông suốt đời như họ đã tôn kính Môi-se.Khi ấy, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy bảo các thầy tế lễ khiêng Rương Chứng Cớ ra khỏi lòng sông Giô-đanh.”Vậy, Giô-suê truyền bảo các thầy tế lễ: “Hãy ra khỏi lòng sông Giô-đanh!”Các thầy tế lễ từ lòng sông lên bờ, khiêng Rương Giao Ước của CHÚA. Ngay lúc họ đặt chân lên đất khô trên bờ, lập tức dòng nước sông Giô-đanh trở lại như cũ và tiếp tục chảy tràn bờ như trước.Ngày mồng mười tháng một, dân chúng từ lòng sông Giô-đanh tiến lên, hạ trại tại Ghinh-ganh trên ranh giới phía đông thành Giê-ri-cô. Giô-suê dựng mười hai tảng đá lên tại Ghinh-ganh, tức là các tảng đá người ta đã lấy dưới đáy sông Giô-đanh. Ông bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Về sau, khi hậu tự các ngươi hỏi cha ông chúng: ‘Các tảng đá này có nghĩa gì?’ Hãy đáp: ‘Dân Y-sơ-ra-ên đã vượt qua sông Giô-đanh như đi trên đất khô. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã làm cho dòng sông Giô-đanh cạn khô trước mặt các ngươi cho đến khi các ngươi đã đi qua hết. CHÚA, Đức Chúa Trời các người đã làm cho sông Giô-đanh y như Ngài đã làm cho Biển Đỏ, khiến nó cạn khô trước mặt chúng ta cho đến khi chúng ta vượt qua sông.’ Ngài thực hiện điều này để tất cả các dân tộc trên khắp đất biết rõ bàn tay quyền năng của CHÚA và để các ngươi luôn kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi!”Lễ Cắt Bì Lớn Tại Ghinh-ganhKhi tất cả các vua A-mô-rít ở tây bộ sông Giô-đanh và tất cả các vua Ca-na-an dọc miền duyên hải nghe tin CHÚA đã làm cạn sông Giô-đanh trước mặt dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi họ vượt qua sông, lòng các vua ấy bèn tan ra như nước và không còn chút can đảm nào đối đầu với dân Y-sơ-ra-ên nữa.Bấy giờ, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy làm các dao bằng đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa.” Vậy, Giô-suê làm dao đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên tại đồi A-ra-lốt.Lý do phải cắt bì là vì tất cả những người ra khỏi Ai-cập, tức là những người nam trong tuổi quân dịch, đều đã chết trên đường đi trong sa mạc sau khi rời khỏi Ai-cập. Tất cả những người nam ra khỏi Ai-cập đều đã chịu cắt bì, nhưng tất cả những người sinh trong sa mạc suốt cuộc hành trình từ Ai-cập đều chưa chịu cắt bì. Dân Y-sơ-ra-ên đã đi quanh quẩn trong sa mạc bốn mươi năm cho đến khi tất cả những người nam trong tuổi nghĩa vụ khi họ rời Ai-cập đều qua đời; vì họ không vâng theo lời CHÚA. Vì CHÚA đã thề với họ rằng họ không được thấy lãnh thổ mà Ngài đã hứa với tổ phụ họ sẽ ban cho dân chúng là một vùng đượm sữa và mật. Vậy, Ngài dấy các con trai họ lên thay thế họ; đây là những người được Giô-suê cắt bì. Lúc ấy họ vẫn chưa chịu cắt bì vì suốt cuộc hành trình không có cuộc lễ cắt bì nào cả. Sau khi toàn thể nam đinh đều được cắt bì, họ ở yên tại chỗ trong trại mình cho đến khi được lành.Rồi CHÚA phán dạy Giô-suê: “Ngày nay, Ta lăn xa khỏi các ngươi sự sỉ nhục của Ai-cập.” Vậy, người ta đặt tên địa điểm này là Ghinh-ganh cho đến ngày nay.Dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại Ghinh-ganh trong đồng bằng Giê-ri-cô thì dự lễ Vượt Qua vào buổi chiều tối ngày mười bốn tháng ấy. Chính ngày sau lễ Vượt Qua, dân chúng bắt đầu ăn thổ sản trong xứ: bánh không men và hạt rang. Một ngày sau khi họ ăn thực phẩm của xứ ấy, thì ma-na không sa xuống nữa; từ đó, dân Y-sơ-ra-ên không còn được hưởng chút ma-na nào nữa, nhưng trong năm ấy họ ăn thổ sản của xứ Ca-na-an.Thống Tướng Quân Đội CHÚAKhi Giô-suê đang ở gần Giê-ri-cô, ông ngước mắt lên, nhìn thấy một người đứng ngay trước mặt mình tay cầm gươm trần. Giô-suê đi lên phía người đó mà hỏi: “Ông là người bên ta hay là người bên địch?”Người ấy đáp: “Không. Ta là Thống Tướng Quân Đội của CHÚA nên Ta đến đây.” Giô-suê quỳ mọp xuống đất lạy và hỏi: “CHÚA ra lệnh cho đầy tớ CHÚA làm gì?”Thống Tướng Quân Đội CHÚA đáp: “Hãy lột dép khỏi chân ngươi vì nơi ngươi đang đứng là thánh.” Giô-suê liền tuân lệnh.Bấy giờ thành Giê-ri-cô đã đóng kín cổng vì dân Y-sơ-ra-ên kéo đến; không ai vào ra nữa.CHÚA phán dạy Giô-suê: “Này Ta đã phó Giê-ri-cô, vua và các chiến sĩ của họ vào tay con. Con hãy đi một lần vòng quanh thành với tất cả các chiến sĩ; phải đi như thế trong sáu ngày liên tiếp. Bảy thầy tế lễ sẽ cầm bảy cái tù và sừng dê đực đi trước Rương Giao Ước. Qua ngày thứ bảy các con hãy đi vòng quanh thành bảy lần với các thầy tế lễ đang thổi tù và. Khi nghe tiếng tù và thổi dài, hãy bảo tất cả đoàn quân lớn tiếng thét lên, lúc ấy vách thành sẽ sụp đổ, rồi quân sẽ leo lên, mỗi người tiến lên ngay phía trước mình.”Vậy Giô-suê, con trai Nun triệu tập các thầy tế lễ mà bảo: “Hãy khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên, và hãy cho bảy thầy tế lễ cầm tù và đi trước Rương của CHÚA.” Ông cũng ra lệnh cho dân chúng: “Tiến lên! Đi vòng quanh thành với các chiến sĩ vũ trang đi trước rương của CHÚA!”Sau khi Giô-suê nói cùng dân chúng, bảy thầy tế lễ cầm bảy cái tù và tiến tới trước mặt CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Rương Giao Ước của CHÚA đi theo họ. Các chiến sĩ vũ trang kéo đi trước các thầy tế lễ thổi tù và, còn quân hậu tập đi sau Rương Giao Ước. Suốt thời gian chuyển quân, tù và tiếp tục thổi. Nhưng Giô-suê đã ra lệnh cho dân chúng: “Các ngươi đừng la hét, đừng trò chuyện; cũng đừng nói một lời nào cho đến khi ta ra lệnh hét lên. Lúc đó các ngươi sẽ la hét!” Vậy Giô-suê cho khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đi vòng quanh thành một lần, rồi về nghỉ đêm trong trại.Sáng sau Giô-suê dậy sớm và các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên. Bảy thấy tế lễ cầm bảy cây tù và tiến lên trước; đi trước Rương Giao Ước của CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Các chiến sĩ vũ trang đi lên trước, còn các chiến sĩ hậu tập theo sau Rương của CHÚA trong khi tù và tiếp tục được thổi. Vậy, ngày thứ nhì họ đi vòng quanh thành một lần rồi quay về trại. Họ cứ làm như thế trong sáu ngày.Ngày thứ bảy họ dậy lúc rạng đông và đi vòng quanh thành bảy lần như trước (chỉ riêng ngày ấy họ đi vòng quanh thành bảy lần). Đến vòng thứ bảy, khi các thầy tế lễ thổi một tiếng dài, Giô-suê ra lệnh cho dân chúng: “Hãy thét lên! Vì CHÚA đã ban cho các ngươi thành này! Thành và tất cả những gì trong ấy đều phó dâng để diệt đi cho CHÚA; chỉ cô gái mại dâm Ra-háp và tất cả những người cùng hiện diện trong nhà với cô được tha mà thôi, vì cô đã giấu các thám tử chúng ta sai đến. Nhưng hãy tránh xa các vật phó dâng để diệt đi hầu cho các ngươi khỏi bị tiêu diệt vì lấy vật nào trong số ấy; nếu không tuân hành các ngươi sẽ làm cho trại quân Y-sơ-ra-ên đáng bị tiêu diệt và chuốc lấy tai họa. Tất cả bạc, vàng, và vật dụng bằng đồng và sắt đều biệt ra thánh cho CHÚA và phải nhập vào kho của Ngài.”Khi tù và thổi tiếng dài, dân chúng cùng thét lên. Vừa khi nghe tiếng tù và và dân chúng la hét, vách thành sụp đổ; mỗi người xung phong ngay trước mặt mình. Họ chiếm được thành; và dùng gươm diệt mọi sinh vật trong thành, nam phụ lão ấu và các gia súc: bò, cừu và lừa.Giô-suê bảo hai người đã đi trinh sát xứ: “Các ngươi hãy vào trong nhà cô gái mại dâm ấy, đưa nàng và tất cả những người thuộc về nàng ra ngoài đúng như lời các anh đã thề với nàng.” Vậy hai thanh niên đã đi trinh sát xứ bước vào đưa Ra-háp, cha mẹ và anh em nàng, cùng mọi người thuộc về nàng ra khỏi nhà. Họ đem tất cả gia đình nàng ra khỏi và để họ tại một nơi bên ngoài trại quân Y-sơ-ra-ên.Rồi họ phóng hỏa thành, thiêu đốt mọi vật trong ấy và đem bạc vàng và các vật dụng bằng đồng, bằng sắt vào trong kho CHÚA, nhưng Giô-suê tha mạng cho Ra-háp với gia đình nàng cùng tất cả mọi người trong nhà nàng, vì nàng đã che giấu những người Giô-suê sai đến trinh sát Giê-ri-cô. Ra-háp tiếp tục ở giữa dân Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.Lúc ấy Giô-suê thề rằng: “Kẻ nào khởi công xây lại thành Giê-ri-cô này sẽ bị rủa sả trước mặt CHÚA:‘Khi đặt nền thành,Con trưởng nam phải chết;Khi dựng các cổng thành,Con út phải thiệt mạng.’ ”CHÚA ở cùng Giô-suê và ông nổi danh khắp trong xứ.Tội Ác Của A-canNhưng dân Y-sơ-ra-ên đã bất trung thất tín về các vật hiến dâng. A-can, con trai của Cát-mi, cháu của Xáp-đi, chắt của Xê-rách, thuộc bộ tộc Giu-đa đã lấy vài vật hiến dâng nên cơn phẫn nộ của CHÚA nổi phừng lên cùng dân Y-sơ-ra-ên.Từ Giê-ri-cô Giô-suê sai người đến thành A-hi gần Bết-a-ven, về phía đông Bê-tên mà bảo: “Hãy đi lên trinh sát vùng này.” Vậy hai người ấy đi trinh sát thành A-hi. Họ quay về với Giô-suê mà báo cáo: “Không cần đem toàn thể dân chúng lên đi đánh A-hi. Xin ông chỉ cho vài ba ngàn người lên chiếm thành ấy, đừng làm cho toàn dân phải nhọc công vì dân thành ấy rất ít.” Vậy độ ba ngàn người tiến lên, nhưng họ bị người A-hi rượt đuổi và giết mất độ ba mươi sáu người. Người A-hi đuổi quân Y-sơ-ra-ên từ cổng thành đến tận Sê-ba-rim (các mỏ đá) và đánh giết họ lúc chạy xuống dốc. Được tin này lòng dân tan ra như nước.Giô-suê xé áo mình và sấp mặt xuống đất trước rương của CHÚA cho đến chiều tối. Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên cũng làm như thế và rắc bụi đất lên đầu mình. Giô-suê thưa: “Ôi lạy Chúa tôi, là CHÚA! Tại sao CHÚA đem dân tộc này qua sông Giô-đanh để giao nạp chúng con vào tay dân A-mô-rít để tiêu diệt chúng con? Ước gì chúng con thỏa lòng ở lại bên kia sông Giô-đanh! Ôi lạy CHÚA! con sẽ nói làm sao khi Y-sơ-ra-ên bị quân thù rượt đuổi? Dân Ca-na-an và các dân tộc khác trong xứ này sẽ nghe tin và họ sẽ bao vây chúng con cùng quét sạch danh tính chúng con trên mặt đất. Rồi lúc ấy CHÚA sẽ làm gì cho chính danh lớn của CHÚA?”CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đứng dậy! Con sấp mặt xuống đất làm gì? Y-sơ-ra-ên đã phạm tội, bội nghịch giao ước Ta mà Ta đã truyền phải giữ. Chúng đã lấy mấy vật hiến dâng, ăn cắp, nói dối, và để những vật ấy chung với của cải mình. Vì thế dân Y-sơ-ra-ên không thể chống nổi quân thù, phải xây lưng chạy trốn vì tự làm cho mình đáng bị tiêu diệt. Nếu con không tiêu diệt bất luận vật nào đáng bị tiêu diệt giữa các con thì Ta sẽ không còn ở với các con nữa.Con hãy đi, biệt dân ra thánh và bảo họ: ‘Các ngươi hãy tự thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai vì đây là lời CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dạy: Hỡi Y-sơ-ra-ên, ở giữa ngươi có vật đáng hủy diệt! Ngươi không chống nổi quân thù cho đến khi nào ngươi loại vật ấy ra. Sáng mai, hãy trình diện từng bộ tộc. Bộ tộc nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng gia tộc; gia tộc nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng gia đình; gia đình nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng người. Kẻ nào bị bắt quả tang có vật hiến dâng sẽ bị tiêu diệt trong lửa với tất cả những vật thuộc về nó vì nó đã phạm giao ước của CHÚA và đã làm điều hổ nhục trong Y-sơ-ra-ên!’ ”Sáng hôm sau trời còn sớm, Giô-suê bảo Y-sơ-ra-ên đến gần từng bộ tộc một, bộ tộc Giu-đa bị chỉ ra. Các gia tộc Giu-đa tiến lên; gia tộc Sê-rách bị chỉ ra. Ông bảo gia tộc Sê-rách tiến lên từng gia đình; gia đình Xáp-đi bị chỉ ra. Giô-suê bảo gia đình Xáp-đi tiến lên từng người; A-can, con Cát-mi, cháu Xáp-đi, chắt Sê-rách trong bộ tộc Giu-đa bị chỉ ra.Giô-suê bèn bảo A-can: “Con ơi, hãy tôn vinh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ca ngợi Ngài. Con hãy khai cho ta điều con đã làm, đừng giấu diếm.”A-can đáp: “Thật, tôi đã phạm tội chống nghịch CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây là điều tôi đã làm: khi thấy trong chiến lợi phẩm một chiếc áo dài Si-nê-a đẹp đẽ, hai trăm sê-ken7:21 2.30kg bạc và một nén vàng nặng năm mươi sê-ken,7:21 0.60kg tôi tham muốn các vật ấy và lấy đi, đem giấu dưới đất trong trại tôi, còn bạc thì ở dưới.”Vậy, Giô-suê sai người chạy đến trại thấy các vật ấy giấu trong trại, còn bạc thì ở dưới. Họ lấy các vật đó trong trại, đem về cho Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên rồi bày ra trước mặt CHÚA. Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên bắt A-can, con cháu Sê-rách, cùng lấy bạc, áo dài, vàng, đem luôn các con trai con gái, bày gia súc, lừa, cừu, trại và tất cả vật sở hữu của ông và dẫn đến thung lũng A-cô. Giô-suê nói: “Tại sao ngươi mang họa đến cho chúng ta? CHÚA sẽ mang họa đến cho ngươi ngày nay.”Rồi toàn dân Y-sơ-ra-ên ném đá A-can. Sau khi ném đá gia đình A-can, họ hỏa thiêu các người ấy. Họ chất trên các thây ấy một đống đá lớn, đến ngày nay vẫn còn. CHÚA liền nguôi cơn giận phừng phừng. Từ đó đến nay, người ta gọi chỗ này là thung lũng A-cô.7:26 Nghĩa là tai họaTiêu Diệt Thành A-hiLúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ cũng đừng nản lòng. Con hãy đem toàn dân theo con, kéo lên tấn công A-hi. Vì Ta đã giao nạp vào tay con vua của A-hi, dân chúng, thành và lãnh thổ nó. Con hãy đối xử với A-hi như đối xử với Giê-ri-cô và vua nó, chỉ khác một điều là lần này các ngươi được lấy các chiến lợi phẩm và gia súc về cho mình. Con hãy mai phục đằng sau thành.”Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ra đi tấn công A-hi. Ông chọn 30,000 chiến sĩ tinh nhuệ nhất và sai họ xuất quân ban đêm cùng truyền lệnh: “Này! Các ngươi phải mai phục đằng sau thành. Đừng đi quá xa thành. Tất cả phải trong thế ứng chiến. Ta và tất cả quân đội ta sẽ tiến đánh mặt tiền thành. Khi địch ra khỏi thành đánh lại chúng ta như chúng đã làm hôm trước, chúng ta sẽ bỏ chạy. Địch sẽ đuổi theo chúng ta cho đến khi nào chúng ta đã dụ chúng ra khỏi thành, vì chúng sẽ nói: ‘Chúng đang chạy trốn chúng ta như lần trước.’ Vậy, khi chúng ta chạy trốn trước mặt chúng, các ngươi phải vùng dậy ra khỏi nơi mai phục và chiếm thành. CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ giao thành ấy vào tay các ngươi. Chiếm thành xong, các ngươi hãy phóng hỏa đốt thành ấy. Hãy tuân hành mệnh lệnh của CHÚA. Đây là lệnh ta truyền cho các ngươi.”Giô-suê sai cánh quân ấy ra đi. Họ đến nơi mai phục và nằm đợi giữa Bê-tên và A-hi, phía tây thành A-hi. Tối hôm ấy, Giô-suê ở với dân chúng.Sáng hôm sau, Giô-suê dậy sớm điểm quân rồi cùng với các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên đi trước quân đội tiến lên A-hi. Toàn quân theo Giô-suê đều tiến lên gần thành, và đến ngay trước mặt thành. Rồi hạ trại phía bắc A-hi; có cái trũng chạy giữa họ và A-hi. Giô-suê đã cho 5,000 quân mai phục giữa Bê-tên và A-hi về phía tây của thành này. Toàn thể quân đội đều bố trí sẵn sàng, tất cả binh sĩ trong trại phía bắc thành phố cũng như cánh quân mai phục phía tây. Đêm ấy, Giô-suê tiến vào trũng.Thấy vậy, vua của A-hi và tất cả dân trong thành vội vã kéo ra khi trời vừa sáng để giáp trận với quân Y-sơ-ra-ên tại một địa điểm có thể nhìn xuống A-ra-ba, nhưng vua A-hi không ngờ có quân mai phục phía sau thành. Giô-suê và quân Y-sơ-ra-ên để cho địch đẩy lui và chạy trốn về hướng sa mạc. Tất cả những người nam trong thành A-hi đều được huy động rượt đuổi quân thù. Họ đuổi theo Giô-suê và bị dụ ra xa thành. Không còn một người nam nào ở lại trong thành A-hi hay Bê-tên. Tất cả đều đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên, bỏ ngỏ thành.Lúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đưa ngọn giáo con cầm trong tay hướng về A-hi vì Ta sẽ giao thành vào tay con.” Vừa đưa tay lên, phục binh nhanh chân đứng dậy chạy vào chiếm đóng và lập tức phóng hỏa thành.Quân A-hi quay lại nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời, nhưng họ không cách nào trốn thoát, chạy về hướng nào cũng không được vì quân Y-sơ-ra-ên đang chạy trốn về phía sa mạc đã quay lại phản công quân địch rượt đuổi mình. Vì khi Giô-suê và toàn quân Y-sơ-ra-ên thấy phục binh đã chiếm được thành và thấy luồng khói bốc lên thì họ quay lại tấn công quân A-hi. Cánh quân mai phục cũng kéo ra ngoài thành đánh quân A-hi nên quân A-hi bị vây chính giữa, còn quân Y-sơ-ra-ên tiến đánh cả hai mặt. Quân Y-sơ-ra-ên tàn sát địch không còn một người nào sống hay đào thoát. Nhưng quân Y-sơ-ra-ên bắt sống vua A-hi đem về cho Giô-suê.Khi quân Y-sơ-ra-ên đã giết xong tất cả dân thành A-hi, người ngoài đồng, người trong sa mạc mà họ đã săn đuổi. Khi tất cả đã ngã chết dưới lưỡi gươm đến người cuối cùng, quân Y-sơ-ra-ên quay lại A-hi và dùng gươm giết những kẻ còn ở trong thành. Số người ngã chết hôm ấy là 12,000 người, cả nam lẫn nữ, tức là toàn dân A-hi. Vì Giô-suê không thu lại cây giáo tay ông đã đưa ra cho đến khi tuyệt diệt toàn dân A-hi. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bắt các bày gia súc đem về và cướp đoạt tài sản trong thành y như CHÚA đã chỉ định cho Giô-suê.Vậy, Giô-suê phóng hỏa làm cho nó thành một đống đổ nát điêu tàn vĩnh viễn cho đến ngày nay. Ông treo vua của A-hi trên cây cho đến chiều tối. Khi mặt trời lặn, Giô-suê sai đem xác vua xuống khỏi cây và liệng xuống tại lối vào cổng thành. Người ta chất trên xác ấy một đống đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay.Tái Lập Giao Ước Tại Núi Ê-banhGiô-suê xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên núi Ê-banh theo lệnh của Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã truyền lại cho Y-sơ-ra-ên. Ông xây bàn thờ ấy đúng theo điều sách luật Môi-se đã quy định, xây bằng đá nguyên khối, không dùng khí cụ bằng sắt. Người ta dâng cho CHÚA các tế lễ thiêu và các tế lễ cầu an. Tại đó, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, Giô-suê chép trên đá Kinh Luật của Môi-se như người đã ghi. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, công dân cũng như ngoại kiều, đều cùng các trưởng lão, quan chức và thẩm phán đứng hai bên Rương Giao Ước của CHÚA đối diện với những người khiêng Rương tức là các thầy tế lễ người Lê-vi. Phân nửa dân chúng đứng đối ngang núi Ga-ri-xim, và phân nửa đối ngang núi Ê-banh như Môi-se, tôi tớ CHÚA đã long trọng truyền bảo khi ông ra chỉ thị chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên.Sau đó, Giô-suê đọc tất cả những lời trong Kinh Luật, chúc phước cũng như rủa sả, đúng như đã ghi trong Sách Kinh Luật. Không một lời nào Môi-se đã truyền dạy mà Giô-suê không đọc trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, kể cả phụ nữ, trẻ con, cũng như các ngoại kiều đang sống giữa họ.Người Ga-ba-ôn Lừa Gạt Y-sơ-ra-ênLúc ấy, tất cả các vua ở tây bộ sông Giô-đanh đều nghe các việc này, các vua vùng rừng núi, vùng đồi thấp dưới chân núi miền tây và vùng ven Biển Lớn đến tận Li-ban (tức là vua dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít) đều họp nhau để giao chiến với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên.Nhưng khi dân Ga-ba-ôn nghe tin những điều Giô-suê đã làm cho Giê-ri-cô và A-hi, bèn dùng mưu kế: họ cử một phái đoàn cưỡi lừa chở đầy những bao cũ mòn và bầu rượu cũ nứt, vá lại. Nhân viên phái đoàn mang dép mòn chắp vá và mặc quần áo cũ kỹ; tất cả bánh mang theo đều khô cứng và nổi mốc. Họ đến gặp Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh và thưa với ông và người Y-sơ-ra-ên: “Chúng tôi từ một xứ xa xôi, bây giờ xin quý ngài lập hòa ước với chúng tôi.”Dân Y-sơ-ra-ên đáp với người Hê-vít: “Biết đâu các ông ở gần chúng tôi đây. Làm thế nào lập hòa ước với các ông được.”Họ nói với Giô-suê: “Chúng tôi là đầy tớ của ông.” Nhưng Giô-suê chất vấn: “Các ông là ai? Từ đâu đến đây?”Họ đáp: “Đầy tớ các ông từ một xứ rất xa đến đây vì nghe danh tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ông. Chúng tôi cũng đã nghe báo cáo về Ngài: tất cả những việc Ngài đã làm tại Ai-cập, và tất cả những điều Ngài làm cho hai vua dân A-mô-rít ở đông bộ sông Giô-đanh, tức là Si-hôn, vua Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, trị vì tại Ách-ta-rốt. Các trưởng lão và tất cả dân chúng trong nước chúng tôi bảo chúng tôi: Hãy lấy lương thực dùng dọc đường rồi đi gặp họ và nói: Chúng tôi là đầy tớ quý vị; bây giờ xin quý vị lập hòa ước với chúng tôi. Bánh mì của chúng tôi còn nóng hổi ngày chúng tôi rời nhà và mang theo, mà ngày nay đã khô và mốc meo. Những bầu rượu này còn mới khi chúng tôi đổ rượu vào, mà nay đã nứt bể; áo quần và giầy dép chúng tôi đã cũ mòn vì đi đường rất xa.”Dân Y-sơ-ra-ên thử lương thực của họ nhưng không cầu vấn CHÚA. Giô-suê bèn lập hòa ước với họ, bảo đảm để cho họ sống và các nhà lãnh đạo hội chúng thề nguyện để thông qua hòa ước ấy.Ba ngày sau khi lập ước với người Ga-ba-ôn, dân Y-sơ-ra-ên mới nghe rằng họ là người lân cận và ở gần mình. Dân Y-sơ-ra-ên lên đường và đến ngày thứ ba đã đến các thành: Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt, và Ki-ri-át Giê-a-rim. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không tấn công họ, vì các nhà lãnh đạo của hội chúng đã thề nguyện với dân này trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.Cả hội chúng lằm bằm nghịch cùng các nhà lãnh đạo; nhưng tất cả các nhà lãnh đạo đáp: “Chúng tôi đã nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mà thề nguyện cùng dân đó, nên bây giờ chúng ta không thể nào động đến họ nữa. Đây là cách chúng ta đối xử với họ: phải để cho họ sống, đừng vì lời thề nguyện mà chuốc lấy cơn phẫn nộ của CHÚA trên chúng ta.” Các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tiếp: “Hãy để cho họ sống nhưng phải làm dân công đốn củi xách nước cho cả hội chúng.” Vậy, họ giữ lời hứa của các nhà lãnh đạo.Lúc ấy Giô-suê triệu tập dân Ga-ba-ôn và bảo: “Tại sao các ngươi lừa gạt chúng ta rằng: chúng tôi ở rất xa các ông mà thật ra các ngươi ở gần chúng ta? Bây giờ các ngươi bị rủa sả: các ngươi không bao giờ thôi làm nô lệ, mãi mãi đốn củi và xách nước cho nhà của Đức Chúa Trời ta.”Họ thưa cùng Giô-suê: “Đầy tớ của ông được nghe rõ rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông, đã phán dặn Môi-se, đầy tớ Ngài, ban cho quý vị toàn xứ này và tiêu diệt tất cả dân cư trong xứ trước mặt mình. Vì sợ quý vị giết hại mạng sống nên chúng tôi mới làm như thế. Bây giờ, chúng tôi ở trong tay quý vị; quý vị cứ đối xử với chúng tôi theo điều quý vị thấy là tốt và phải lẽ.”Vậy, Giô-suê giải cứu họ khỏi bị dân Y-sơ-ra-ên giết. Từ ngày đó, ông cắt đặt dân Ga-ba-ôn làm người đốn củi và xách nước cho hội chúng và cho bàn thờ CHÚA tại nơi nào Ngài sẽ chọn. Đó là việc họ làm cho đến ngày nay.Mặt Trời Đứng YênLúc ấy, A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, được tin Giô-suê đã chiếm A-hi và tiêu diệt thành ấy, đối xử với thành A-hi và vua nó như ông đã đối xử với thành Giê-ri-cô và vua nó, cũng được tin dân Ga-ba-ôn đã lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên và sống chung với họ. Vua và toàn dân lo sợ vì Ga-ba-ôn là một thành quan trọng, kể như một thành của vua lớn hơn A-hi, và tất cả người nam của Ga-ba-ôn đều là chiến sĩ thiện nghệ.Vậy A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem kêu gọi Hô-ham, vua Hếp-rôn, Phi-ram, vua Giạt-mút, Gia-phia, vua La-ki và Đê-bia, vua Éc-lôn rằng: “Các vua hãy lên giúp ta tấn công Ga-ba-ôn vì họ đã cầu hòa với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên.” Vậy, năm vua người A-mô-rít, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki, và Éc-lôn, liên minh quân sự với nhau, đem toàn lực kéo lên dàn quân và tấn công Ga-ba-ôn.Người Ga-ba-ôn bèn sai người báo tin cho Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh: “Xin ông đừng bỏ mặc đầy tớ ông! Xin hãy nhanh chóng lên đây giải cứu chúng tôi! Xin cứu giúp chúng tôi vì tất cả các vua dân A-mô-rít trong vùng đồi núi đã liên minh tiến đánh chúng tôi.”Vậy, Giô-suê đem toàn thể quân đội gồm tất cả các chiến sĩ tinh nhuệ nhất, từ Ghinh-ganh kéo lên. CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó; Ta đã giao nạp chúng nó vào tay con. Không ai trong chúng nó chống lại con được đâu.”Sau khi xuất phát từ Ghinh-ganh, Giô-suê đi suốt đêm bất ngờ tấn công quân địch. CHÚA khiến hàng ngũ quân địch rối loạn trước mặt quân đội Y-sơ-ra-ên. Họ đại thắng quân thù ở Ga-ba-ôn. Quân Y-sơ-ra-ên rượt đuổi quân thù suốt dọc đường đi lên Bết Hô-rôn và đánh tan địch cho đến tận A-xê-ka và Ma-kê-đa. Khi quân địch chạy trốn trước mặt quân Y-sơ-ra-ên trên con đường xuống dốc từ Bết Hô-rôn đến A-xê-ka, CHÚA khiến mưa đá lớn từ trời sa xuống và quân địch chết vì mưa đá còn nhiều hơn số người bị quân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết chết.Trong ngày CHÚA giao nạp dân A-mô-rít trong tay Y-sơ-ra-ên, Giô-suê thưa với CHÚA trước mặt dân Y-sơ-ra-ên:“Mặt trời hỡi, hãy đứng yên trên Ga-ba-ônMặt trăng hỡi, hãy dừng chân trên trũng A-gia-lôn.”Vậy, mặt trời đứng yênVà mặt trăng dừng lạiCho đến khi dân chúng đã báo thù quân địch,đó là điều sách Gia-sa đã ghi. Mặt trời đứng yên giữa bầu trời, không vội lặn gần trọn một ngày.Trước nay chưa bao giờ có một ngày như thế và mãi về sau cũng chẳng bao giờ có nữa, là ngày CHÚA nhậm lời của một con người. Thật CHÚA đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.Rồi Giô-suê cùng toàn quân quay về trại quân tại Ghinh-ganh.Năm Vua Dân A-mô-rít Bị GiếtLúc ấy, năm vua đã trốn thoát và ẩn náu trong một hang đá tại Ma-kê-đa. Khi Giô-suê được báo cáo rằng người ta đã tìm thấy năm vua trốn trong hang đá Ma-kê-đa, ông ra lệnh: “Hãy lăn đá lớn lấp miệng hang đá và cắt đặt người canh gác. Nhưng cứ tiến quân, đừng dừng bước! Hãy đuổi theo quân địch, tấn công chúng từ phía sau. Đừng để chúng chạy trước về các thành của chúng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao nạp chúng nó vào tay các ngươi.”Vậy, Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đánh giết quân địch rất nhiều đến nỗi gần như tuyệt diệt họ. Số ít người còn sống sót trốn về các thành kiên cố của họ. Toàn quân Y-sơ-ra-ên an toàn quay về với Giô-suê tại trại quân Ma-kê-đa. Không một ai dám mở miệng nói nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên nữa.Giô-suê ra lệnh: “Hãy mở miệng hang đá, đem năm vua ấy cho ta.” Vậy, họ điệu năm vua ra khỏi hang đá, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki và Éc-lôn. Thấy các vua bị điệu đến trước mặt mình, Giô-suê triệu tập tất cả nam đinh Y-sơ-ra-ên và ra lệnh cho các cấp chỉ huy quân đội đã theo mình: “Hãy đến đạp chân lên cổ các vua này!” Vậy, họ tiến lên đạp chân trên cổ các vua.Giô-suê bảo họ: “Đừng sợ, đừng nản lòng! Hãy mạnh dạn và can đảm lên! Đây chính là điều CHÚA sẽ làm cho tất cả các quân địch mà các ngươi sắp chiến đấu.” Giô-suê bèn đánh giết các vua ấy rồi treo xác họ trên năm thân cây; họ bị treo trên cây cho đến chiều tối.Đến hoàng hôn, Giô-suê ra lệnh cho người ta đem xác các vua trên cây xuống và ném vào trong hang đá họ đã ẩn náu. Nơi miệng hang, người ta chất các tảng đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay.Hôm ấy, Giô-suê chiếm đóng Ma-kê-đa, dùng gươm giết vua và tận diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông cũng đối xử với vua Ma-kê-đa như đã đối xử với vua Giê-ri-cô.Chiếm Đóng Các Thành Phương NamRồi toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ Ma-kê-đa qua Líp-na để tấn công thành này. CHÚA cũng giao thành và vua ấy vào tay dân Y-sơ-ra-ên. Giô-suê dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông đối xử với vua Líp-na như đã đối xử với vua Giê-ri-cô.Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông tiến quân từ Líp-na qua La-ki, và bố trí để tấn công thành. CHÚA giao nạp La-ki vào tay Y-sơ-ra-ên. Ngày thứ nhì Giô-suê chiếm đóng thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành này như đã làm cho Líp-na. Trong khi đó, Hô-ram, vua Ghê-xe, đem quân đến cứu La-ki, nhưng Giô-suê đánh bại vua và quân đội của vua cho đến khi không còn một người nào sống sót.Rồi Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ La-ki tiến qua Éc-lôn và bố trí để tấn công thành này. Họ chiếm được thành này ngay hôm ấy và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành như họ đã làm cho La-ki.Giô-suê và toàn dân theo ông từ Éc-lôn qua Hếp-rôn để tấn công thành này. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành và các làng phụ cận luôn với vua của chúng, không để một ai sống sót. Họ tận diệt mọi người trong thành này như họ đã làm tại Éc-lôn.Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông đều quay lại tấn công Đê-bia. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt dân cư trong thành và các làng phụ cận cùng với vua của chúng. Họ tận diệt mọi người trong đó không để một ai sống sót. Họ đối xử với Đê-bia và vua nó như đã đối xử với Hếp-rôn, Líp-na và vua nó.Vậy, Giô-suê bắt phục cả vùng lãnh thổ từ miền đồi núi, miền nam, miền chân đồi phía tây và các triền núi luôn với các vua của các xứ này; không để một ai sống sót, tất cả các sinh vật trong đó đều bị ông tận diệt đúng theo lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban hành. Giô-suê bình trị các vùng từ Ca-đê Ba-nê-a đến Ga-xa và từ cả vùng Gô-sen cho đến Ga-ba-ôn. Tất cả các vua và đất nước họ đều bị Giô-suê đánh bại trong một chiến dịch vì CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.Rồi Giô-suê cùng toàn dân Y-sơ-ra-ên quay lại trại quân ở Ghinh-ganh.Các Vua Phương Bắc Bị Thất TrậnKhi nghe tin này, Gia-bin, vua Hát-so, sai người đến tâu với Giô-báp, vua Ma-đôn, các vua của Sim-rôn và Ạc-sáp, với các vua ở phương bắc trên núi, trong đồng bằng miền nam Ki-nê-rết, trong miền chân núi phía tây và tại vùng cao nguyên Đô-rơ về phía tây; dân Ca-na-an về phía đông và phía tây, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít và dân Giê-bu-sít trong miền đồi núi; cùng dân Hê-vít dưới chân núi Hẹt-môn, trong vùng Mích-ba. Các vua này xuất quân toàn lực, đem theo nhiều xe và ngựa với một đạo quân đông như cát biển. Tất cả các vua ấy hẹn nhau đem quân đóng trại chung gần hồ Mê-rôm để tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên.Nhưng CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó, vì ngày mai độ vào giờ này, Ta sẽ nạp thây của tất cả chúng nó cho Y-sơ-ra-ên. Con phải cắt nhượng ngựa và đốt xe chúng nó.”Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ông bất ngờ tấn công quân địch gần hồ nước Mê-rôm, và đột kích chúng nó. CHÚA giao nạp chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. Họ đánh bại và rượt đuổi chúng suốt cả đường cho đến tận vùng Si-đôn nới rộng, Mít-rê-phốt Ma-im và tận trũng Mích-ba ở phía đông, không để một ai sống sót. Giô-suê đối xử với chúng nó như CHÚA đã phán dặn: ông cắt nhượng ngựa và đốt xe của họ.Lúc ấy, Giô-suê quay lại chiếm đóng Hát-so và dùng gươm giết vua của Hát-so (Hát-so vốn cầm đầu các vương quốc ấy). Dân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết sạch mọi người trong thành; tiêu diệt hoàn toàn các loài sinh vật có hơi thở. Giô-suê đốt rụi thành Hát-so.Giô-suê chiếm tất cả các thành thủ đô các vương quốc này, bắt các vua và dùng gươm giết sạch. Ông tiêu diệt chúng hoàn toàn như Môi-se, tôi tớ của CHÚA, đã truyền bảo. Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên không đốt thành nào xây trên các ngọn đồi ngoại trừ Hát-so mà Giô-suê đã đốt. Dân Y-sơ-ra-ên mang đi tất cả các chiến lợi phẩm và gia súc trong các thành đó, nhưng lại dùng gươm giết sạch dân cư không chừa lại một sinh vật nào. Mệnh lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài, thì Môi-se truyền lại cho Giô-suê, và Giô-suê thực thi tất cả mệnh lệnh CHÚA đã phán dạy Môi-se, không bỏ sót điều gì.Vậy, Giô-suê chiếm toàn thể đất nước này: miền đồi núi, tất cả miền nam bộ, toàn thể vùng Gô-sen, các khu chân núi miền tây, miền A-ra-ba và các rặng núi của Y-sơ-ra-ên với miền chân núi, từ núi Ha-lát nổi cao lên về hướng Sê-i-rơ, cho đến Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban dưới chân núi Hẹt-môn, ông bắt tất cả các vua của họ và đánh giết đi. Giô-suê chiến tranh với các vua ấy suốt một thời gian dài. Không có một dân nào sống tại Ga-ba-ôn lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên chỉ có dân Hê-vít. Dân Y-sơ-ra-ên phải đánh trận mới bắt được họ. Vì chính CHÚA làm cho lòng dạ các vua ấy ngoan cố mà tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu có thể tiêu diệt họ hoàn toàn và quét sạch chúng nó không thương xót, như CHÚA đã truyền dạy Môi-se.Lúc ấy, Giô-suê đi tiêu diệt dân A-na-kim trên miền đồi núi: từ Hếp-rôn, Đê-bia và A-náp, từ cả miền đồi núi Giu-đa cho đến cả miền đồi núi Y-sơ-ra-ên. Giô-suê hoàn toàn tiêu diệt họ và thành của họ. Trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên không còn một người A-na-kim nào, ngoại trừ Ga-xa, Gát và Ách-đốt là nơi có người khổng lồ sống sót. Vậy, Giô-suê chiếm toàn bộ đất nước này đúng như CHÚA đã chỉ thị cho Môi-se. Ông cấp đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp tùy theo gia tộc, tông bộ tộc.Lúc ấy, đất nước mới được hưởng thái bình và nghỉ ngơi.Danh Sách Các Vua Thất TrậnĐây là danh sách các vua trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng và chiếm lấy đất đai của họ phía đông sông Giô-đanh, từ suối Ạt-nôn đến núi Hẹt-môn với cả đồng bằng về phía đông A-ra-rát.Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn, vốn cai trị từ A-rô-e bên bờ suối Ạt-nôn và từ giữa dòng suối cho đến suối Gia-bốc, là biên giới Am-môn; là một nửa Ga-la-át, với cả miền đồng bằng cho đến biển Ki-nê-rết phía đông đến tận biển đồng bằng tức là Biển Mặn phía đông hướng Bết Giê-si-mốt; cùng cả miền nam dưới chân núi Phích-ga.Óc, vua Ba-san là người cuối cùng của dân Rê-pha-im ở tại Ách-ta-rốt và Ếch-rê-i. Lãnh thổ vua này gồm núi Hẹt-môn, miền Sanh-ca, và cả xứ Ba-san đến tận biên giới dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, cùng đến nửa xứ Ga-la-át là biên giới của Hết-bôn, do vua Si-hôn cai trị.Môi-se, đầy tớ của CHÚA, và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng họ; rồi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, chia cấp lãnh thổ họ cho người Ru-bên, người Gát, và phân nửa bộ tộc Ma-na-se làm cơ nghiệp.Đây là danh sách các vua trong xứ mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng phía tây sông Giô-đanh, từ Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban đến tận núi Ha-lát lên cao về hướng Sê-i-rơ (Giô-suê cấp lãnh thổ họ làm sản nghiệp cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, miền đồi núi, miền chân núi phía tây, miền A-ra-ba, các triền núi, miền đồng hoang và miền nam bộ, tức là lãnh thổ của dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít):Vua Giê-ri-côVua A-hi (gần Bê-tên)Vua Giê-ru-sa-lemVua Hếp-rônVua Giạt-mútVua La-kiVua Éc-lônVua Ghê-xeVua Đê-biaVua Ghê-đeVua Họt-maVua A-rátVua Líp-naVua A-đu-lamVua Ma-kê-đaVua Bê-tênVua Tháp-bu-áchVua Hê-phêVua A-phécVua Sa-rônVua Ma-đônVua Hát-soVua Sim-rôn Mê-rônVua Ạc-sápVua Tha-a-nácVua Mê-ghi-đôVua Kê-đeVua Giốc-kê-am ở núi Cạt-mênVua Đô-rơ ở cao nguyên Đô-rơVua Gô-im ở Ghinh-ganhVà Vua Thiệt-saTổng Cộng tất cả là ba mươi mốt vua.Các Vùng Đất Chưa Chiếm ĐóngKhi Giô-suê tuổi cao tác lớn, CHÚA phán bảo ông: “Con đã già, lãnh thổ cần phải chiếm đóng còn rất rộng.Đây là lãnh thổ còn lại: tất cả các vùng đất của người Phi-li-tin và người Ghê-su-rít; từ sông Si-cô phía đông Ai-cập cho đến lãnh thổ Éc-rôn phía bắc, tất cả được kể là xứ của người Ca-na-an (lãnh thổ của năm lãnh chúa Phi-li-tin tại Ga-xa, Ách-đốt, Ách-ca-lôn, Gát, và Éc-rôn), và lãnh chúa dân A-vít; về phía nam, tất cả lãnh thổ của người Ca-na-an từ A-ra của dân Si-đôn đến A-phéc là vùng đất của dân A-mô-rít, địa phận của Ghi-bê-lít, và cả miền Li-ban về phía đông, từ Ba-anh Gát dưới chân núi Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát.Còn tất cả dân cư vùng núi từ Li-ban đến Mít-rê-phốt Ma-im tức là tất cả dân Si-đôn. Chính Ta sẽ đánh đuổi chúng nó trước mặt Y-sơ-ra-ên. Con hãy cấp đất này cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp như Ta đã chỉ thị cho con, và phân chia đất ấy làm cơ nghiệp cho chín bộ tộc và phân nửa bộ tộc Ma-na-se.”Chia Đất Tại Đông Bộ Sông Giô-đanhPhân nửa bộ tộc Ma-na-se kia cùng người Ru-bên và người Gát đã nhận cơ nghiệp mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp cho họ phía đông sông Giô-đanh.Lãnh thổ họ trải dài tận A-rô-e (giáp ranh thung lũng Ạt-nôn) và thành ở giữa thung lũng ấy, gồm luôn cả cao nguyên từ Mê-đê-ba đến Đi-bôn. Và tất cả các thành của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn đến tận biên giới dân Am-môn. Vùng đất ấy bao gồm xứ Ga-la-át, lãnh thổ Ghê-su-rơ và Ma-a-ca, toàn bộ núi Hẹt-môn và cả xứ Ba-san đến tận Sa-lê-ca, tức là cả vương quốc của Óc, vua Ba-san, người Rê-pha-im cuối cùng, đã cai trị tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i. Môi-se đã chiến thắng họ và chiếm đất nước họ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không đuổi được dân Ghê-ru-sơ và Ma-a-ca nên họ tiếp tục sống với người Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho bộ tộc Lê-vi vì các lễ vật dùng lửa dâng lên cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp của họ như Ngài đã hứa với họ.Đây là phần Môi-se đã cấp cho bộ tộc Ru-bên, từng gia tộc:Lãnh thổ từ A-rô-e giáp ranh thung lũng Ạt-nôn và từ thành giữa thung lũng ấy, đến cả cao nguyên vượt qua Mê-đê-ba đến Hết-bôn và tất cả các thành trên cao nguyên gồm cả Đi-bôn, Ba-mốt Ba-anh, Bết Ba-anh Mê-ôn, Gia-hát, Kê-đê-mốt, Mê-phát, Ki-ri-a-tha-im, Síp-ma, Xê-rết Sa-ha trên ngọn đồi trong thung lũng, Bết Phê-ô, các triền núi Phích-ga, Bết Giê-si-mốt, tất cả các thành trên cao nguyên và toàn bộ vương quốc của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn. Môi-se đã chiến thắng vua này và các vương hầu Ma-đi-an đang sống trong xứ và liên minh với vua Si-hôn là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba. Ngoài những kẻ bị giết trên chiến trường, người Y-sơ-ra-ên còn dùng gươm xử tử Ba-la-am, con trai Bê-ô, là người thuật sĩ bói khoa. Ranh giới của người Ru-bên là bờ sông Giô-đanh. Các thành này và các làng phụ cận đều là cơ nghiệp của người Ru-bên theo từng gia tộc.Đây là phần Môi-se cấp cho bộ tộc Gát, theo từng gia tộc:Lãnh thổ Gia-ê-xe, tất cả các thành trong xứ Ga-la-át, và phân nửa xứ Am-môn, đến tận A-rô-e, gần Ráp-ba; từ Hết-bôn đến Ra-mát Mích-ba và Bê-tô-nim, và từ Ma-ha-na-im đến lãnh thổ Đê-bia; trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn với phần còn lại trong vương quốc của Si-hôn, vua Hết-bôn (phía đông sông Giô-đanh, lãnh thổ chạy dài đến cuối biển Ki-nê-rết). Các thành và các làng này là cơ nghiệp của người Gát, theo từng gia tộc.Đây là phần Môi-se cấp cho phân nửa bộ tộc Ma-na-se theo từng gia tộc (tức là phân nửa bộ tộc gồm dòng dõi của Ma-na-se):Lãnh thổ chạy từ Ma-ha-na-im, toàn bộ xứ Ba-san, các vương quốc của Óc, vua Ba-san, và các khu định cư của Giai-rơ tại Ba-san, sáu mươi thành, phân nửa xứ Ga-la-át, Ách-ta-rốt và Ết-rê-i (tức là các đô thành của Óc trong xứ Ba-san). Đó là phần cấp cho dòng dõi của Ma-ki, con trai Ma-na-se, tức là phân nửa các con trai của Ma-ki, theo từng gia tộc.Đó là cơ nghiệp Môi-se đã ban phát khi còn ở trong đồng bằng Mô-áp đối ngang sông Giô-đanh ở phía đông Giê-ri-cô. Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho bộ tộc Lê-vi; CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là cơ nghiệp của họ như Ngài đã phán hứa.Chia Đất Phía Tây Sông Giô-đanhĐây là địa phận mà dân Y-sơ-ra-ên nhận làm cơ nghiệp trong đất Ca-na-an, theo sự phân chia của thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Họ bắt thăm chia đất cho chín bộ tộc rưỡi như CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo. Môi-se đã cấp cơ nghiệp cho hai bộ tộc rưỡi tại phía đông sông Giô-đanh nhưng không cấp cơ nghiệp nào cho người Lê-vi cả, vì dòng dõi của Giô-sép đã trở thành hai bộ tộc là Ma-na-se và Ép-ra-im. Người Lê-vi không nhận được phần đất nào nhưng chỉ được các thành để cư trú và các đồng cỏ cho bày bò bày chiên của họ. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên chia đất đúng như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.Ca-lép Được Đất Hếp-rônLúc ấy, người Giu-đa đến gần Giô-suê tại Ghinh-ganh, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít nói: “Ông biết điều CHÚA đã phán về tôi và về ông qua Môi-se, người của Đức Chúa Trời, tại Ca-đê Ba-nê-a. Khi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, ở Ca-đê Ba-nê-a sai tôi đi thám sát đất nước này, tôi được bốn mươi tuổi. Tôi trở về báo cáo cách trung thực đúng theo lòng tôi, nhưng các anh em tôi là những người cùng đi với tôi đã làm cho lòng dân rã rời chán nản. Tuy nhiên, tôi đã hết lòng theo CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi. Hôm ấy, Môi-se đã thề với tôi: ‘Vùng đất nào bàn chân ngươi đạp đến sẽ là cơ nghiệp của ngươi và con cháu ngươi đời đời, vì ngươi đã hết lòng theo CHÚA là Đức Chúa Trời ta.’Đúng như lời CHÚA đã phán hứa, Ngài đã gìn giữ tôi còn sống suốt bốn mươi lăm năm từ lúc Ngài phán dạy Môi-se điều ấy suốt thời gian Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong sa mạc; CHÚA đã bảo tồn mạng sống tôi cho đến bây giờ, và ngày nay tôi được tám mươi lăm tuổi. Ngày nay tôi vẫn còn mạnh khỏe như ngày Môi-se sai tôi ra đi; tôi vẫn còn tràn đầy sinh lực xung phong ra trận như ngày trước. Bây giờ xin ông cấp cho tôi xứ đầy đồi núi này mà CHÚA đã hứa ban cho tôi hôm ấy. Chính ông đã nghe báo cáo rằng dân khổng lồ A-na-kim vẫn còn ở đó, và các thành của họ đều rộng lớn và kiên cố, nhưng nhờ CHÚA giúp đỡ, tôi sẽ đánh đuổi chúng ra như Ngài đã phán.” Giô-suê bèn chúc phước cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và cấp cho ông miền Hếp-rôn làm cơ nghiệp. Vậy, Hếp-rôn thuộc quyền sở hữu của Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, từ đó đến nay, vì người đã hết lòng theo CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. (Hếp-rôn vốn được gọi là Ki-ri-át A-ra-ba, theo tên của A-ra-ba, là người khổng lồ nổi danh nhất trong vòng người A-na-kim).Từ đó, đất nước được thái bình, không còn chiến tranh.Chia Đất Cho Giu-đaPhần đất chia cho bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc, trải dài đến lãnh thổ Ê-đôm và tận sa mạc Xin ở miền cực nam.Địa giới miền nam bắt đầu từ vịnh ở phía nam, cuối Biển Mặn, vượt qua phía nam đèo Bò-cạp, thẳng đến Xin, vòng lên phía nam Ca-đê Ba-nê-a, đi ngang Hết-rôn lên đến A-đa, vòng quanh Cát-ca, chạy dọc Át-môn, đổ vào suối Ai-cập rồi chấm dứt ở bờ biển. Đây là địa giới phía nam.Địa giới phía đông là Biển Mặn cho đến vàm sông Giô-đanh.Địa giới phía bắc khởi từ vịnh Biển Mặn ở vàm sông Giô-đanh, lên Bết Hốt-la, đi về phía bắc Bết A-ra-ba đến tảng đá Bô-han (tên con trai của Ru-bên). Đến đây, địa giới lên Đê-bia, từ thung lũng A-cô quay về hướng bắc đến Ghinh-ganh, đối ngang đèo A-đu-mim phía nam dòng suối; chạy dọc theo mé nước Ên-sê-mết, giáp Ên-rô-ghên; từ đó chạy lên thung lũng Bên Hi-nôm, dọc theo triền núi trên thành Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem); leo lên đỉnh đồi phía tây thung lũng Hi-nôm tại điểm cuối phía bắc của thung lũng Rê-pha-im. Từ đỉnh đồi, địa giới hướng về suối nước Nép-thô-ách, giáp các thành trên núi Ếp-rôn rồi xuống hướng Ba-la (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim); từ Ba-la vòng qua hướng tây đến núi Sê-i-rơ, chạy dọc triền phía bắc ngọn núi Giê-a-rim (tức là Kê-sa-lôn), xuống thẳng tới Bết Sê-mết và vượt qua Thim-na. Địa giới chạy về triền núi phía bắc của Éc-rôn, quay về phía Siếc-rôn, đi dọc theo núi Ba-la đến tận Giáp-nê-ên rồi giáp biển.Địa giới phía tây là bờ Biển Lớn.Đó là địa giới bao quanh đất của người Giu-đa, theo từng gia tộc.Theo lệnh CHÚA, Giô-suê cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, một phần đất giữa người Giu-đa: Ki-ri-át A-ra-ba tức là Hếp-rôn (A-ra-ba là tổ phụ của A-nác). Ca-lép đánh đuổi ra khỏi Hếp-rôn ba người khổng lồ A-na-kim là Sê-nai, A-hi-man và Thanh-mai đều là con của A-nác. Từ đó, ông lên đánh dân thành Đê-bia (trước kia gọi là Ki-ri-át Sê-phe). Ca-lép nói: “Ta sẽ gả Ạc-sa, con gái ta, cho người nào tấn công và chiếm được Ki-ri-át Sê-phe.” Ốt-ni-ên, con trai Kê-na (Kê-na là em Ca-lép), chiếm được thành nên Ca-lép gả Ạc-sa, con gái mình, cho Ốt-ni-ên làm vợ.Khi về nhà Ốt-ni-ên, nàng thúc giục chồng xin cha mình cho một đám ruộng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn cha giúp con điều chi?” Nàng thưa: “Xin cha cho con một ân huệ. Vì cha đã cho con đất ở miền nam nên xin cha cũng cho con luôn các suối nước.” Vậy, Ca-lép cho nàng các dòng suối trên và dưới.Đây là cơ nghiệp của bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc:Các thành cực nam đất Giu-đa giáp ranh Ê-đôm tại nam bộ là:Cáp-sê-ên, Ê-đê, Gia-gua, Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa, Kê-đe, Hát-so, Gít-nan, Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt Hết-rôn (tức là Hát-so), A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, Hát-sa-ga-đa, Hết-môn, Bết Pha-lê, Hát-sa Su-anh, Bê-e Sê-ba, Bi-sốt-gia, Ba-la, Y-đim, Ê-xem, Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma, Xiếc-lác, Mát-ma-na, San-sa-na, Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn: cộng lại là hai mươi chín thành với các làng phụ cận.Tại miền chân núi phía tây:Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na, Xa-nô-ách, Ên Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam, Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ka, Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, Ghê-đê-ra và Ghê-đê-rô-tha-im: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh Gát, Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên, La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn, Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít, Ghê-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa: cộng lại là mười sáu thành với các làng phụ cận.Líp-na, Ê-the, A-san, Díp-tách, Át-na, Nết-síp, Kê-i-la, Ạc-xíp, và Ma-rê-sa: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.Éc-rôn với các khu định cư và các làng quanh thành; phía tây Éc-rôn, tất cả lãnh thổ quanh vùng Ách-đốt với các làng phụ cận; Ách-đốt với các khu định cư và các làng quanh thành; Ga-xa với các khu định cư và các làng của nó, đến tận dòng suối Ai-cập và bờ Biển Lớn.Trong vùng đồi núi:Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô, Đa-na, Ki-ri-át Sa-na (tức là Đê-bia), A-náp, Ết-thê-mô, A-nim, Gô-sen, Hô-lôn, Ghi-lô: cộng lại là mười một thành với các làng phụ cận.A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an, Gia-num, Bết Tháp-bu-ách, A-phê-ca, Hum-ta, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), và Si-lô: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Gia-ta, Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách, Ca-in, Ghi-bê-a và Thim-na: cộng lại là mười thành với các làng phụ cận.Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, Ma-a-rát, Bết A-nốt và Ên-thê-côn: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át, Giê-a-rim và Ráp-ba: cộng lại là hai thành với các làng phụ cận.Trong sa mạc:Bết A-ra-ba, Mi-đin, Sê-ca-ca, Níp-san, Yết Ha-mê-lách và Ên-ghê-đi: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.Người Giu-đa không trục xuất được dân Giê-bu-sít đang ở tại Giê-ru-sa-lem nên người Giê-bu-sít sống chung với người Giu-đa cho đến ngày nay.Chia Đất Cho Ép-ra-im Và Ma-na-sePhần đất dành cho Giô-sép bắt đầu trên bờ sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, phía đông các dòng suối Giê-ri-cô. Ranh giới từ đó chạy lên qua sa mạc đến miền đồi núi Bê-tên: từ Bê-tên (tức Lu-xơ) vượt qua lãnh thổ của người A-kít tại A-ta-rốt; xuống phía tây đến lãnh thổ của người Giáp-lê-tít và tận vùng Bết Hô-rôn hạ đến Ghê-xe và chấm dứt tại bờ biển.Vậy, Ma-na-se và Ép-ra-im, con cháu Giô-sép, lãnh cơ nghiệp của họ.Đây là lãnh thổ của Ép-ra-im, theo từng gia tộc:Ranh giới cơ nghiệp họ khởi từ A-ta-rốt A-đa ở phía đông đến Bết Hô-rôn thượng, và ra đến biển. Từ Mít-mê-tha ở phía bắc ranh giới vòng qua hướng đông đến Tha-a-nác Si-lô đi ngang thành ấy mà đến Gia-nô-ách ở phía đông; rồi từ Gia-nô-ách xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, giáp Giê-ri-cô và ra sông Giô-đanh. Từ Tháp-bu-ách, ranh giới đi về hướng tây đến rạch Ca-na rồi chấm dứt tại bờ biển. Đó là cơ nghiệp của bộ tộc Ép-ra-im, theo từng gia tộc. Con cháu Ép-ra-im cũng có các thành và làng riêng giữa cơ nghiệp của con cháu Ma-na-se.Nhưng họ không trục xuất được dân Ca-na-an ở Ghê-xe, nên dân Ca-na-an sống giữa người Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng buộc phải làm lao công cưỡng bách.Chia Đất Cho Chi Tộc Ma-na-seĐây là phần chia cho bộ tộc của Ma-na-se, trưởng nam của Giô-sép, tức là phần của Ma-ki, trưởng nam của Ma-na-se. Ma-ki là tổ phụ của người Ga-la-át vì họ là chiến sĩ dũng cảm nên được nhận đất Ga-la-át và Ba-san. Người ta cũng chia đất cho các con khác của Ma-na-se, theo từng gia tộc: gia tộc A-bi-ê-se, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chem, Hê-phê và Sê-mi-đa. Đó là tên các con trai của Ma-na-se, cháu Giô-sép, tùy theo gia tộc.Xê-lô-phát con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki và chít Ma-na-se, chỉ sinh con gái không có con trai, các cô ấy tên là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. Các cô này đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun và các nhà lãnh đạo mà thưa: “CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se phải cho chúng tôi cơ nghiệp ở giữa anh em chúng tôi” nên Giô-suê chia cơ nghiệp cho họ giữa vòng anh em họ như CHÚA truyền. Ma-na-se được mười phần đất chưa kể Ga-la-át và Ba-san ở phía đông sông Giô-đanh. Vì các con gái trong bộ tộc Ma-na-se được cơ nghiệp ở giữa các con trai người, nên xứ Ga-la-át thuộc quyền sở hữu của các hậu tự khác của Ma-na-se.Lãnh thổ của Ma-na-se bắt đầu từ lãnh thổ của bộ tộc A-se đến Mít-mê-tha phía đông Si-chem. Từ đó ranh giới chạy về phía nam bao gồm dân ở bên Tháp-bu-ách. Đất Tháp-bu-ách thuộc về Ma-na-se, nhưng thành Tháp-bu-ách trên ranh giới lại thuộc về người Ép-ra-im. Từ đó ranh giới chạy về phía nam khe Ca-na. Có những thành gần các thành phố Ma-na-se nhưng lại thuộc về thành Ép-ra-im ranh giới của Ma-na-se nằm phía bắc khe và chấm dứt ở bờ biển. Lãnh thổ phía nam khe thuộc về Ép-ra-im còn phía bắc thuộc về Ma-na-se chạy dài đến tận biển và giáp ranh với A-se phía bắc và Y-sa-ca phía đông.Giữa đất Y-sa-ca và A-se, Ma-na-se cũng được Bết Sê-an, Gíp-lê-am, dân chúng Đô-rơ, Ên Đô-rơ, Tha-na-át và Mê-ghi-đô cùng với các khu định cư quanh các thành ấy (Na-phốt, là khu thứ ba trong bảng liệt kê).Tuy nhiên, người Ma-na-se không chiếm đóng các thành ấy vì dân Ca-na-an quyết định tiếp tục sống trong vùng này. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh nên bắt dân Ca-na-an phải lao công phục vụ, song chẳng đuổi họ được hết.Dòng dõi của Giô-sép thưa với Giô-suê: “Tại sao ông chỉ chia cho chúng tôi một phần và một khoảnh đất làm sản nghiệp? Dân số chúng tôi đông vì CHÚA đã ban phước dồi dào cho chúng tôi.”Giô-suê đáp: “Nếu dân các ngươi đông như thế và nếu vùng đồi núi của Ép-ra-im quá nhỏ hẹp cho các ngươi, hãy đi lên vùng rừng rậm trên cao và khai hoang đất cho mình trong xứ của người Phê-rê-sít và người Rê-pha-im.”Nhưng dòng dõi Giô-sép đáp: “Vùng đồi núi không đủ chỗ cho chúng tôi còn vùng đồng bằng thì tất cả dân Ca-na-an đều có chiến xa bằng sắt, kể cả dân Bết Sê-an và các khu định cư của họ cũng như dân trong trũng Gít-rê-ên.”Giô-suê bảo nhà Giô-sép tức là Ép-ra-im và Ma-na-se: “Các ngươi có dân đông và rất cường thịnh nên không phải chỉ lãnh một phần đất mà thôi, nhưng cả vùng đồi núi cũng thuộc về các ngươi; dù là rừng rậm các ngươi cũng sẽ khai phá ra và bờ cõi các vùng ấy đều thuộc về các ngươi; các ngươi cũng sẽ trục xuất được dân Ca-na-an dù chúng cường thịnh và có chiến xa.”Chia Các Lãnh Thổ Còn LạiToàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên họp tại Si-lô và dựng Trại Hội Kiến lên. Khắp đất nước đều đặt dưới quyền kiểm soát của họ, nhưng vẫn còn bảy bộ tộc Y-sơ-ra-ên chưa nhận được cơ nghiệp mình.Vậy, Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi còn đợi cho đến bao giờ mới bắt đầu chiếm lãnh thổ mà CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi. Mỗi bộ tộc hãy chỉ định ba người, ta sẽ sai họ ra đi khảo sát địa hình rồi viết bản báo cáo về cơ nghiệp của bộ tộc mình. Lúc ấy họ sẽ quay về với ta. Các ngươi phải chia đất ra làm bảy phần. Giu-đa phải ở lại trong lãnh thổ phía nam và nhà Giô-sép thì ở lãnh thổ phương bắc. Sau khi các ngươi viết bảng tường trình về bảy phần đất, hãy đem đến đây cho ta, ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa các ngươi vì chức vụ tế lễ cho CHÚA là cơ nghiệp của họ. Các bộ tộc Gát, Ru-bên và nửa bộ tộc Ma-na-se đã lãnh được lãnh thổ phía đông sông Giô-đanh mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã cho họ làm sản nghiệp.”Khi họ bắt đầu ra đi vẽ bản đồ xứ này, Giô-suê còn cho chỉ thị: “Các ngươi hãy ra đi khảo sát vùng đất này và viết bài mô tả rồi quay về với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại Si-lô trước mặt CHÚA.” Vậy, họ lên đường và đi suốt cả đất nước, viết trong cuộn da bài mô tả từng thành phố cả bảy phần đất rồi quay về với Giô-suê trong trại quân tại Si-lô. Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt CHÚA, và cũng tại đây, ông chia lãnh thổ cho dân Y-sơ-ra-ên tùy theo bộ tộc họ.Chia Đất Cho Bên-gia-minPhần đất bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Bên-gia-min, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ nằm giữa bộ tộc Giu-đa và bộ tộc Giô-sép.Ranh giới họ về phía bắc, khởi đi từ sông Giô-đanh, chạy lên phía bắc sườn núi Giê-ri-cô, hướng về phía tây lên đến vùng đồi núi rồi chạy về sa mạc Bết A-ven. Từ đó, ranh giới vượt qua phía nam sườn núi Lu-xơ (tức là Bê-tên), rồi đi xuống A-ta-rốt A-đa trên đồi phía nam của Bết Hô-rôn hạ.Từ ngọn đồi đối ngang Bết Hô-rôn về phía nam, ranh giới chạy xuống miền nam dọc theo phía tây cho đến khi giáp thành Ki-ri-át Ba-anh (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim), một thành của dân Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây.Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành Ki-ri-át Giê-a-rim về phía tây chạy về suối nước Nép-thô-ách. Ranh giới đi xuống phía chân đồi đối ngang trũng Bên Hi-nôm ở phía bắc trũng Rê-pha-im, tiếp tục xuống trũng Hi-nôm dọc theo sườn núi phía nam của thành dân Giê-bu-sít cho đến Ên Rô-ghên. Ranh giới vòng lên phía bắc đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt đối ngang đèo A-đu-mim cho đến tận tảng đá Bô-han (tên con của Ru-bên). Ranh giới tiếp tục chạy lên sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba. Rồi ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, đến giáp vịnh phía bắc của Biển Mặn tại cửa sông Giô-đanh về phía nam. Đó là ranh giới về phía nam.Sông Giô-đanh làm ranh giới về phía đông.Đó là ranh giới tứ phía của cơ nghiệp của gia tộc Bên-gia-min.Bộ tộc Bên-gia-min được các thành sau đây theo từng gia tộc:Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, A-vim, Pha-ra, Óp-ra, Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni và Ghê-ba: cộng lại là mười hai thành và các làng phụ cận;Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, Rê-kem, Diệt Bê-ên, Tha-rê-a-la, Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.Đó là phần cơ nghiệp của dòng dõi Bên-gia-min.Chia Đất Cho Si-mê-ônPhần đất thứ hai bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp họ nằm giữa cơ nghiệp của người Giu-đa. Lãnh thổ họ gồm có Bê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa, Hát-sa Su-anh, Ba-la, Ê-xem, Ên-thô-lát, Bê-thu, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa, Bết Lê-ba-ốt và Sê-a-ru-chen: cộng lại được mười ba thành với các làng phụ cận;A-in, Rim-môn, Ê-the và A-san: cộng lại được bốn thành và các làng phụ cận; luôn tất cả các làng xung quanh các thành ấy cho đến Ba-lát-bê-e (tức là Ra-ma ở miền nam).Đó là cơ nghiệp của bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp của dân Si-mê-ôn là một phần đất của Giu-đa lấy chia cho họ vì lãnh thổ của Giu-đa quá lớn. Vậy, người Si-mê-ôn nhận cơ nghiệp mình trong lãnh thổ Giu-đa.Chia Đất Cho Sa-bu-luânPhần đất thứ ba bắt trúng nhằm bộ tộc Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.Ranh giới cơ nghiệp họ chạy đến tận Sa-ríp, qua phía tây chạy đến Ma-rê-a-la, giáp Đáp-bê-sết và kéo dài đến khe gần Giốc-nê-am. Từ Sa-ríp quay về phía đông hướng mặt trời mọc, ranh giới chạy đến lãnh thổ Kít-lốt Tha-bô và đi về phía Đáp-rát, lên đến Gia-phia. Từ đó ranh giới chạy về phía đông cho đến Gát Hê-phê và Ết-cát-sin, kéo dài từ Rim-môn và quay sang Nê-a. Từ đó, ranh giới chạy quanh lên phía bắc cho đến Ha-na-thôn và chấm dứt ở trũng Díp-tha-ên; gồm có các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la và Bết-lê-hem: cộng lại là mười thành và các làng phụ cận.Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.Chia Đất Cho Y-sa-caPhần đất thứ tư bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ gồm có:Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem, Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-cha-rát, Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết, Rê-mết, Ên Ga-nim, Ên Ha-đa và Bết Phát-sết. Ranh giới đi ngang Tha-bô, Sa-chát-si-ma và Bết-sê-mết rồi giáp sông Giô-đanh: cộng lại được mười sáu thành với các làng phụ cận.Các thành với các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc.Chia Đất Cho A-sePhần đất thứ năm bắt thăm trúng nhằm bộ tộc A-se, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ gồm có:Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ạc-sáp, A-lam-mê-léc, A-mê-át và Mi-sê-anh. Phía tây, ranh giới đụng Cạt-mên và Shi-he Líp-na, quay sang phía đông về hướng Bết Đa-gôn đụng đất Sa-bu-luân và trũng Díp-tha-ên rồi quay về phía bắc cho đến Bết Ê-méc và Nê-ên, chạy ngang Ca-bun về phía tả, đi về Ếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn và Ca-na đến tận ngoại thành Si-đôn. Từ đó, ranh giới quay về hướng Ra-ma, đến thành kiên cố Ty-rơ quay sang Hô-sa, ra đến tận biển vùng Ạc-xíp, U-ma, A-phéc và A-mốt, cộng được hai mươi hai thành và các làng mạc phụ cận.Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của A-se, theo từng gia tộc.Chia Đất Cho Nép-ta-liPhần đất thứ sáu bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.Ranh giới chạy từ Hê-lép và cây cổ thụ ở Sa-na-nim đi về A-đa-mi Nê-kép và Giáp-nê-ên đến Lạc-cung rồi giáp sông Giô-đanh. Ranh giới chạy về phía tây qua Át-nốt Tha-bô đến Hục-cốc; phía nam giáp đất Sa-bu-luân, phía tây giáp đất A-se và phía đông giáp sông Giô-đanh. Các thành kiên cố là: Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết, A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so, Kê-đe, Ên Rê-i, Ên Hát-so, Gi-rê-ôn, Mít-đa Ên, Hô-rem, Bết A-nát và Bết Sê-mết: cộng lại là mười chín thành và các làng phụ cận.Các thành và các làng đó là cơ nghiệp bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.Chia Đất Cho ĐanPhần đất thứ bảy bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Đan, theo từng gia tộc. Lãnh thổ cơ nghiệp họ gồm có:Xô-rê-a, Ết-tha-ôn, Yết Sê-mết, Sa-ba-bin, A-gia-lôn, Gít-la, Ê-lôn, Thim-na-tha, Éc-rôn, Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát, Giê-hút, Bê-nê Bê-rác, Gát Rim-môn, Mê Giạt-côn và Ra-côn với vùng đất đối ngang Gia-phô.Nhưng người Đan gặp trở ngại không thể chiếm được lãnh thổ chia cho mình, nên họ lên tấn công Lê-sem, hạ thành ấy và dùng gươm giết dân cư rồi chiếm đóng thành này. Họ định cư tại Lê-sem rồi lấy tên Đan đặt cho thành này theo tên tổ phụ mình. Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Đan, theo từng gia tộc.Chia Đất Cho Giô-suêSau khi chia đất thành từng miền cho các bộ tộc xong, người Y-sơ-ra-ên tặng Giô-suê, con trai Nun, một cơ nghiệp ở giữa họ theo lệnh của CHÚA. Họ tặng người thành mà người yêu cầu: Thim-nát Sê-rách trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Giô-suê xây thành và định cự tại đó.Đó là các lãnh thổ mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun và các nhà lãnh đạo của các gia tộc tông bộ tộc Y-sơ-ra-ên đã bắt thăm chia đất tại Si-lô trước mặt CHÚA, nơi lối vào Trại Hội Kiến. Như vậy, họ hoàn tất việc chia đất.Các Thành Ẩn NáuCHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên chỉ định các thành ẩn náu như Ta đã dùng Môi-se ra chỉ thị, hầu cho hễ ai lỡ tay và không cố ý mà giết người có thể trốn đến các thành này và được che chở khỏi bị người báo thù huyết làm hại.Khi kẻ ấy trốn đến các thành này, nó phải đứng tại lối vào cổng thành và trình bày trường hợp mình trước mặt các trưởng lão của thành này. Các trưởng lão ấy phải tiếp nhận nó vào trong thành và cho nó một chỗ ở với họ. Nếu kẻ báo thù huyết đuổi theo nó, các trưởng lão không được giao nạp kẻ bị cáo, vì nó đã vô tình giết người lân cận không thù oán trước. Nó phải ở trong thành đó cho đến khi ra tòa trước hội đồng dân chúng và tiếp tục ở lại cho đến khi thầy thượng tế đương chức qua đời. Lúc ấy, nó mới được phép trở về thành mình.”Vậy, họ để riêng thành Kê-đe trong xứ Ga-li-lê thuộc vùng đồi núi Nép-ta-li, Si-chem thuộc vùng đồi núi Ép-ra-im, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn) thuộc vùng đồi núi Giu-đa. Còn phía đông sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, họ chỉ định Bê-se trong đồng hoang trên cao nguyên thuộc bộ tộc Ru-bên, Ra-mốt trong xứ Ga-la-át thuộc bộ tộc Gát và Gô-lan trong xứ Ba-san thuộc bộ tộc Ma-na-se. Bất cứ người Y-sơ-ra-ên nào hay người ngoại kiều sống giữa họ một khi lỡ tay giết người đều có thể trốn đến các thành đã chỉ định đó, cho khỏi bị kẻ báo thù huyết giết chết trước khi ra tòa, để chịu hội đồng dân chúng xét xử.Các Thành Dành Cho Người Lê-viCác trưởng bộ tộc Lê-vi đến gần thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng bộ tộc khác của Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an mà thưa: “CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh cho quý vị cấp cho chúng tôi các thành để cư trú và các đồng cỏ để nuôi gia súc.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ sau đây lấy từ trong sản nghiệp của toàn dân, theo lệnh của CHÚA:Thăm thứ nhất trúng nhằm họ Kê-hát theo từng gia tộc. Người Lê-vi, dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn được cấp mười ba thành lấy trong lãnh thổ của các bộ tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min. Phần còn lại của dòng dõi Kê-hát được cấp mười thành trong đất của gia tộc các bộ tộc Ép-ra-im, Đan và nửa bộ tộc Ma-na-se.Dòng dõi Ghẹt-sôn được cấp mười ba thành lấy trong đất của gia tộc các bộ tộc Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và nửa bộ tộc Ma-na-se ở Ba-san.Dòng dõi Mê-ra-ri, theo từng gia tộc, được mười hai thành lấy trong đất của các bộ tộc Ru-bên, Gát và Sa-bu-luân.Dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ đó như CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh.Người ta cấp các thành sau đây lấy từ các bộ tộc Giu-đa và Si-mê-ôn (các thành này được chỉ định cho dòng dõi A-rôn, con cháu Kê-hát, trong các gia tộc Lê-vi vì thành thứ nhất trúng nhằm họ).Người ta cấp cho họ Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), với các đồng cỏ xung quanh trong miền đồi núi Giu-đa (A-ra-ba là tên tổ phụ của A-nác) nhưng các cánh đồng và các làng quanh thành này được cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, làm sản nghiệp.Vậy, người ta cấp cho dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn thành Hếp-rôn (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Líp-na; Giạt-thia, Ê-thê-mô-a, Hô-lôn, Đê-bia, A-in, Giu-ta và Bết-sê-mết với các đồng cỏ xung quanh các thành, cộng lại là chín thành lấy trong đất hai bộ tộc này.Người ta cấp cho họ các thành Ga-ba-ôn, Ghê-ba, A-na-lốt và Anh-môn với các đồng cỏ xung quanh, từ trong đất Bên-gia-min, cộng lại là bốn thành.Tất cả các thành cấp cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn, cộng lại là mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh.Phần còn lại của các gia tộc Kê-hát, người Lê-vi được cấp các thành sau đây lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Ép-ra-im:Trong miền đồi núi Ép-ra-im, họ được cấp các thành Si-chem (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ghê-xe, Kíp-sa-im, Bết Hô-rôn và các đồng cỏ quanh thành, cộng lại là bốn thành.Họ cũng được cấp các thành Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, A-gia-lôn và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy trong lãnh thổ bộ tộc Đan, cộng lại là bốn thành.Họ được cấp các thành Tha-a-nác và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của nửa bộ tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành.Tất cả mười thành đó và các đồng cỏ xung quanh được cấp cho phần còn lại của các gia tộc Kê-hát.Các gia tộc Ghẹt-sôn, người Lê-vi được cấp:Gô-lan trong xứ Ba-san (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân) và Bết-ê-ra với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của nửa bộ tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành;Các thành Ki-si-ôn, Đáp-rát, Giạt-mút và Ên-gha-nim với các đồng cỏ xung quanh thành, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Y-sa-ca, cộng lại là bốn thành;Mi-sê-anh, Áp-đôn, Hên-cát và Rê-hốp với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của bộ tộc A-se, cộng lại là bốn thành;Kê-đe ở Ga-li-lê (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ha-mốt Đô-rơ và Cạt-than với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Nép-ta-li, cộng lại là ba thành.Tất cả các thành của các gia tộc Ghẹt-sôn cộng lại được mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh.Các gia tộc Mê-ra-ri (tức là những người Lê-vi còn sót lại) được cấp:Giốc-nê-am, Cát-tát, Đim-na và Na-ha-la với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Sa-bu-luân, cộng lại là bốn thành;Bết-se, Giát-sa, Kê-đê-mốt và Mê-phát với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Ru-bên, cộng lại là bốn thành.Ra-mốt ở Ga-la-át (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ma-ha-na-im, Hết-bôn và Gia-ê-xe với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Gát, cộng lại là bốn thành.Tất cả các thành cấp cho các gia tộc Mê-ra-ri (tức là phần còn lại của người Lê-vi) cộng lại là mười hai thành.Các thành của người Lê-vi trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên tổng cộng được bốn mươi tám thành với các đồng cỏ xung quanh. Mỗi thành đều có các đồng cỏ xung quanh; thành nào cũng vậy.Như thế, CHÚA ban cho Y-sơ-ra-ên tất cả các lãnh thổ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ họ. Họ chiếm hữu đất đai và định cư tại đó. CHÚA ban cho họ được an nghỉ đủ mọi phía như Ngài đã thề với tổ phụ họ. Không một kẻ thù nghịch nào chống nổi họ; CHÚA giao nạp tất cả kẻ thù nghịch vào tay họ. Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng có một lời nào không thành tựu; tất cả đều ứng nghiệm.Các Chi Tộc Ở Miền Đông Trở VềBấy giờ, Giô-suê triệu tập người Ru-bên, Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se, mà bảo: “Các ngươi đã làm tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của CHÚA, truyền dặn. Các ngươi cũng đã vâng lệnh ta trong mọi việc. Trải qua một thời gian dài, cho đến ngày nay, các ngươi không bỏ anh em mình, nhưng thực thi mọi công tác CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao thác. Bây giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi đã cho anh em các ngươi an nghỉ như lời Ngài đã hứa, nên các ngươi hãy trở về nhà các ngươi trong lãnh thổ mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp phát cho các ngươi bên kia sông Giô-đanh. Nhưng các ngươi hãy hết sức cẩn thận vâng giữ điều răn và Kinh Luật mà Môi-se, tôi tớ CHÚA, đã truyền cho các ngươi: tức là yêu thương CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, đi theo tất cả các đường lối Ngài, vâng giữ các điều răn Ngài, gắn bó với Ngài cùng hết lòng và hết linh hồn phụng sự Ngài.”Giô-suê chúc phước và cho họ ra về; họ lên đường về nhà mình. (Môi-se đã cấp đất Ba-san cho một nửa bộ tộc Ma-na-se, còn nửa bộ tộc kia được Giô-suê cấp đất phía tây sông Giô-đanh cùng với anh em họ). Khi cho họ ra về, Giô-suê chúc phước cho họ như sau: “Các ngươi hãy trở về nhà mình với của cải dồi dào: các bầy gia súc đông đảo, bạc, vàng, đồng, sắt, và số lượng y phục rất nhiều. Hãy chia xẻ cho anh em mình các chiến lợi phẩm đó mà các ngươi đã thu được từ quân thù”.Vậy, người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se rời dân Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an, quay về xứ Ga-la-át là lãnh thổ mình mà họ đã chiếm được theo lệnh CHÚA truyền bảo Môi-se.Khi họ đến Ghê-li-lốt, gần sông Giô-đanh trong xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se xây một bàn thờ lớn bên bờ sông Giô-đanh. Khi dân Y-sơ-ra-ên nghe tin họ đã xây bàn thờ tại ranh giới xứ Ca-na-an, ở Ghê-li-lốt gần sông Giô-đanh, về phía lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đều tập họp tại Si-lô để tấn công các bộ tộc này.Vậy, dân Y-sơ-ra-ên sai Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa qua xứ Ga-la-át gặp các bộ tộc Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se. Cùng đi với người có mười trưởng bộ tộc, mỗi bộ tộc một người, mỗi người đều đứng đầu một bộ tộc trong gia tộc Y-sơ-ra-ên.Khi phái đoàn đến xứ Ga-la-át, gặp các bộ tộc Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se, bèn bảo họ: “Toàn thể hội chúng của CHÚA hỏi: ‘Sao các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như thế? Sao các ngươi từ bỏ CHÚA mà xây một bàn thờ cho mình để phản loạn với Ngài? Tội ác của Phê-ô gây một trận dịch cho dân Chúa, mãi đến nay chúng ta vẫn chưa thanh tẩy được; điều đó chưa đủ hay sao? Mà nay các ngươi dám trở mặt với CHÚA?Nếu ngày nay các ngươi phản loạn với CHÚA, ngày mai Ngài sẽ phẫn nộ với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên. Nếu lãnh thổ thuộc quyền sở hữu các ngươi bị ô uế, thì hãy qua lãnh thổ của CHÚA là nơi dựng Đền Tạm của CHÚA để chia đất với chúng ta mà ở. Nhưng đừng phản loạn với CHÚA và với chúng ta bằng cách xây một bàn thờ riêng cho mình khác với bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta. Khi A-can, con trai Xê-rách, phạm tội bất trung về các vật phải dâng cho Chúa, thì cơn phẫn nộ há chẳng giáng xuống trên cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sao? Người ấy đâu có phải là người duy nhất bị chết vì tội lỗi mình.’ ”Người Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se đáp lại với các trưởng bộ tộc của Y-sơ-ra-ên: “Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA biết rõ! Và Y-sơ-ra-ên sẽ biết rõ! Nếu đây là một cuộc phản loạn hay bất tuân lời CHÚA, thì xin Ngài đừng tha mạng sống cho chúng tôi. Nếu chúng tôi xây đền thờ riêng để quay lưng lại với CHÚA và dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, hay dâng các tế lễ cầu an thì xin chính CHÚA phán xét chúng tôi.Chúng tôi làm như thế vì sợ rằng một ngày kia dòng dõi của anh em sẽ nói với dòng dõi của chúng tôi: ‘Các ngươi có phần gì với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên? CHÚA đã lập sông Giô-đanh làm biên giới giữa chúng ta và các ngươi, hỡi người Ru-bên và Gát! Các ngươi chẳng có phần gì trong CHÚA cả.’ Như thế, dòng dõi của anh em sẽ làm cho dòng dõi của chúng tôi thôi kính sợ CHÚA.Vì thế, chúng tôi nói: ‘Chúng ta hãy sẵn sàng xây một bàn thờ, không phải để dâng tế lễ thiêu hay các lễ vật khác.’ Trái lại, bàn thờ này sẽ làm chứng giữa chúng tôi và anh em, và suốt cả các thế hệ sau nữa, rằng chúng tôi sẽ thờ phượng CHÚA tại đền thánh Ngài với các tế lễ thiêu, sinh tế và tế lễ cầu an. Trong tương lai, dòng dõi của anh em sẽ không thể nào nói với dòng dõi chúng tôi: ‘Các ngươi chẳng có phần nào trong CHÚA cả.’Và chúng tôi nói: ‘Nếu khi nào họ nói chúng ta và dòng dõi chúng ta như thế thì chúng ta sẽ đáp: xin anh em hãy nhìn bản sao đúng như bàn thờ của CHÚA mà tổ phụ chúng ta đã xây, không phải để dâng tế lễ thiêu hay sinh tế, nhưng để làm chứng giữa chúng ta và anh em.’Chúng tôi chẳng bao giờ phản loạn với CHÚA và trở mặt với Ngài ngày nay bằng cách xây một bàn thờ khác hơn bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi đặt trước Đền Tạm để dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay và các sinh tế.”Khi thầy tế lễ Phi-nê-a và các nhà lãnh đạo của hội chúng, tức là các trưởng bộ tộc của dân Y-sơ-ra-ên, nghe lời trình bày của người Ru-bên, Gát và Ma-na-se, họ đều hài lòng. Vậy, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, bảo người Ru-bên, Gát và Ma-na-se: “Ngày nay, chúng ta biết rõ rằng CHÚA đang ở với chúng ta, vì trong việc này, các ngươi không hành động bất trung với CHÚA. Bây giờ, các ngươi đã cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay CHÚA.”Bấy giờ, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các nhà lãnh đạo quay về xứ Ca-na-an sau cuộc hội kiến với người Ru-bên và Gát ở Ga-la-át rồi báo cáo mọi việc cho dân Y-sơ-ra-ên. Toàn dân vui mừng nghe báo cáo và ca ngợi Đức Chúa Trời. Họ không còn nói đến việc chiến tranh và tàn phá lãnh thổ của người Ru-bên và Gát nữa.Người Ru-bên và người Gát đặt tên cho bàn thờ ấy là: “Một chứng tích giữa chúng ta” rằng CHÚA là Đức Chúa Trời.Giô-suê Từ Giã Các Nhà Lãnh ĐạoSau một thời gian dài, khi CHÚA đã cho dân Y-sơ-ra-ên được nghỉ ngơi khỏi bị các kẻ thù xung quanh quấy rối và Giô-suê tuổi cao tác lớn, ông triệu tập toàn thể các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên mà bảo họ: “Tôi đã già, tuổi đã cao. Các ngươi đã thấy mọi điều CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi làm cho tất cả các dân tộc này vì cớ các ngươi; chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã chiến đấu cho các ngươi. Hãy nhớ lại cách tôi bắt thăm chia sản nghiệp cho các bộ tộc tất cả lãnh thổ của các dân tộc còn lại, các dân tộc tôi đã chiến thắng, giữa sông Giô-đanh và Biển Lớn ở phương tây. Chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, sẽ đuổi sạch dân ấy trước mặt các ngươi. Ngài sẽ trục xuất họ trước mặt các ngươi, và các ngươi sẽ chiếm hữu lãnh thổ của họ, như CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã hứa cho các ngươi.Vậy, hãy hết sức mạnh dạn và cẩn thận vâng giữ tất cả những điều đã chép trong Sách Kinh Luật Môi-se, không xây qua bên hữu hay bên tả. Đừng cấu kết với các dân tộc này đang còn ở giữa các ngươi; đừng xưng tên các thần của họ hoặc nhân danh các thần ấy mà thề nguyện. Các ngươi không được phụng sự hay thờ lạy trước các thần ấy. Nhưng các ngươi phải gắn bó với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi như các ngươi đã làm cho đến ngày nay.Vì CHÚA đã đuổi khỏi trước mặt các ngươi những dân tộc lớn và mạnh. Cho đến ngày nay, không ai chống cự nổi các ngươi. Một người trong các ngươi đuổi được cả ngàn quân thù, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng chiến đấu cho các ngươi như Ngài đã hứa. Vậy, hãy hết sức cẩn thận yêu mến CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.Nhưng nếu các ngươi trở mặt quay lại và liên minh với các dân tộc này còn sót lại ở giữa các ngươi; nếu các ngươi cưới gả và liên kết với chúng nó thì chắc chắn CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ không đuổi các dân tộc ấy trước mặt các ngươi nữa. Trái lại, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi, làm roi đánh nơi hông, làm gai chông chích trong mắt cho đến khi các ngươi bị tiêu diệt khỏi lãnh thổ tốt đẹp này mà CHÚA, Đức Chúa Trời đã ban cho các ngươi.Bây giờ, tôi sắp đi con đường cả thế gian phải đi. Vậy, hãy hết lòng, hết linh hồn nhận thức rằng tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã phán cho các ngươi chẳng một lời nào sai hết; tất cả đều ứng nghiệm, không sót một điều nào. Nhưng hễ các lời hứa tốt lành của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi được ứng nghiệm thể nào, thì CHÚA cũng sẽ đem đến cho các ngươi những tai họa Ngài đe dọa thể ấy, cho đến khi nào Ngài tiêu diệt các ngươi khỏi lãnh thổ tốt lành Ngài đã ban cho các ngươi. Nếu các ngươi bội giao ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dặn, mà bỏ đi phụng sự và quỳ lạy các thần khác, thì cơn phẫn nộ của CHÚA sẽ nổi giận nghịch với các ngươi, các ngươi sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng khỏi lãnh thổ tốt đẹp mà Ngài đã ban cho các ngươi.”Tái Lập Giao Ước Tại Si-chemGiô-suê tập họp tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên tại Si-chem. Ông cũng triệu tập các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên; họ đều trình diện trước mặt Đức Chúa Trời.Giô-suê nói với toàn dân: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán: ‘Thời xưa tổ tiên các ngươi là Tha-rê, thân phụ của Áp-ra-ham và Na-cô, ở phía bên kia Sông Lớn và thờ lạy các thần khác. Nhưng Ta đã đem Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi, ra khỏi lãnh thổ bên kia Sông Lớn và dẫn ngươi đi khắp xứ Ca-na-an, ban cho người nhiều hậu tự. Ta ban Y-sác cho người, ban Gia-cốp và Ê-sau cho Y-sác. Ta cấp miền rừng núi Sê-i-rơ cho Ê-sau, nhưng Gia-cốp và các con trai người đều xuống Ai-cập.Rồi Ta sai Môi-se và A-rôn, dùng nhiều việc kỳ dấu lạ để hành hạ người Ai-cập và đem các ngươi ra khỏi xứ đó. Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi Ai-cập đến bờ biển, người Ai-cập đuổi theo với quân xa và kỵ binh đến tận Biển Đỏ. Nhưng tổ phụ các ngươi cầu cứu CHÚA, Ngài dùng bóng tối phân rẽ các ngươi với người Ai-cập; Ngài cho nước biển phủ lên người Ai-cập, chính các người thấy tận mắt những việc Ta làm cho người Ai-cập. Rồi các ngươi sống trong sa mạc một thời gian dài.Ta đem các ngươi đến lãnh thổ người A-mô-rít phía đông sông Giô-đanh. Họ chống đánh các ngươi, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta tiêu diệt họ trước mặt các ngươi và các ngươi chiếm hữu lãnh thổ của họ. Khi Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp, chuẩn bị chống đánh Y-sơ-ra-ên, vua vời Ba-la-am, con trai Bê-ô, đến rủa sả các ngươi. Nhưng Ta không chịu nghe Ba-la-am; vì vậy, người phải chúc phước các ngươi liên hồi và Ta giải cứu các ngươi khỏi tay người.Rồi các ngươi vượt qua sông Giô-đanh mà đến Giê-ri-cô; dân thành Giê-ri-cô chống đánh các ngươi cũng như dân A-mô-rít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta sai ong vò vẽ đi trước các ngươi và đuổi chúng nó trước mặt các ngươi, như đuổi hai vua A-mô-rít. Các ngươi không dùng gươm cung mình để đuổi họ. Như thế, Ta ban cho các ngươi lãnh thổ mà các ngươi không phải khó nhọc cày bừa, các thành mà các ngươi không xây cất; các ngươi định cư ở đó. Các vườn nho và vườn ô-liu mà các ngươi không trồng đều dùng làm lương thực cho các ngươi.Vậy, bây giờ hãy kính sợ CHÚA và hết lòng trung tín phụng sự Ngài. Hãy ném bỏ các thần mà tổ tiên các ngươi đã thờ phượng bên kia Sông Lớn và tại Ai-cập mà phụng sự CHÚA. Nhưng nếu các ngươi không thích phụng sự CHÚA thì ngày nay hãy chọn ai mà các ngươi muốn phụng sự, hoặc các thần mà tổ tiên đã phụng sự bên kia Sông Lớn, hoặc các thần của dân A-mô-rít trong lãnh thổ các ngươi đang ở, nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự CHÚA.’ ”Nhưng dân chúng đều đáp: “Chúng tôi quyết chẳng bao giờ bỏ CHÚA mà phụng sự các thần khác đâu! Chính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ai-cập là nhà nô lệ, thực hiện những dấu lạ vĩ đại đó ngay trước mắt chúng tôi và phù hộ chúng tôi suốt cuộc trường chinh, khỏi bị các dân tộc hai bên đường làm hại. Ngài tống đuổi trước mặt chúng tôi tất cả các dân tộc, kể cả người A-mô-rít đang ở trong xứ. Chúng tôi cũng sẽ phụng sự CHÚA vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi.”Giô-suê bảo dân chúng: “Các ngươi không đủ sức phụng sự CHÚA đâu vì Ngài là Đức Chúa Trời thánh, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ngài không dung túng sự phản loạn và tội lỗi của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ CHÚA mà phụng sự các thần ngoại thì Ngài sẽ xoay lại giáng họa cho các ngươi, kết liễu số phận các ngươi, sau khi đã đối xử tốt với các ngươi cho đến bây giờ.”Nhưng dân chúng vẫn thưa với Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA.”Lúc ấy, Giô-suê nói: “Các ngươi tự làm nhân chứng cho mình rằng các ngươi đã lựa chọn việc phụng sự CHÚA.” Dân chúng đáp: “Vâng, chúng tôi xin làm nhân chứng.”Giô-suê tiếp: “Vậy bây giờ hãy loại bỏ các thần ngoại còn giữa các ngươi, đem lòng đầu phục CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên!”Dân chúng đáp lời Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi và vâng lời Ngài.”Hôm ấy, Giô-suê lập một giao ước cho dân chúng và thiết định các sắc lệnh và quy luật tại Si-chem. Giô-suê ghi chép các lời ấy vào Sách Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Rồi ông lấy một tảng đá lớn, dựng lên tại đó dưới cây sồi gần Nơi Thánh của CHÚA.Giô-suê bảo toàn thể dân chúng: “Kìa, tảng đá này sẽ làm chứng cho chúng ta vì nó đã nghe tất cả những lời CHÚA phán dạy chúng ta. Nó sẽ làm chứng nghịch với các ngươi nếu các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời mình.”Giô-suê cho dân chúng ra về; mỗi người về trong cơ nghiệp mình.Sau các việc đó, Giô-suê, con trai Nun, đầy tớ CHÚA qua đời, thọ được một trăm mười tuổi. Người ta an táng người trong lãnh thổ cơ nghiệp người tại Thim-nát Sê-rách, trên miền rừng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-ách.Dân Y-sơ-ra-ên phụng sự CHÚA suốt đời Giô-suê và các trưởng lão còn sống sót sau Giô-suê, tức là những người đã kinh nghiệm mọi việc CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên.Hài cốt của Giô-sép mà dân Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi Ai-cập được an táng tại Si-chem, trong miếng đất Gia-cốp đã mua của con cái Hê-mô, cha Si-chem, giá một trăm nén bạc;24:32 Nt: kesitah, một đơn vị tiền tệ thời thái cổ chưa được xác định dòng dõi Giô-sép được đất này làm cơ nghiệp.Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, cũng qua đời và được an táng tại Ghi-bê-a, là nơi Phi-nê-a, con trai người được cấp trên miền đồi núi Ép-ra-im.