- New Vietnamese Bible 2014 Mác Phúc Âm MÁC Mác Mác Phúc Âm MÁC Giới Thiệu Sách Phúc Âm Mác bắt đầu bằng câu giới thiệu: “Phúc Âm về Chúa Cứu Thế Giê-su, Con Đức Chúa Trời.” Chúa Giê-su được mô tả như là một người của hành động và thẩm quyền. Ngài có thẩm quyền trong việc dạy dỗ, đuổi quỷ, tha thứ tội lỗi. Chúa Giê-su cũng tuyên xưng rằng Ngài là Con Người đến thế gian dâng hiến mạng sống của mình để cứu chuộc loài người ra khỏi tội lỗi. Mác trình bày Chúa Giê-su như là một nhân vật của hành động nhiều hơn là lời nói và sự dạy dỗ của Ngài. Sau một phần ngắn về Giăng Báp-tít, lễ Báp-tem, sự cám dỗ, Mác bước ngay vào chức vụ dạy dỗ và chữa bệnh của Chúa Giê-su. Với thời gian trôi qua, các môn đệ của Chúa Giê-su ngày càng hiểu rõ Ngài hơn trong khi đó sự chống đối, thù nghịch của các kẻ thù của Ngài cũng gia tăng. Các chương cuối của sách nói về những biến cố trong tuần lễ cuối cùng của cuộc đời tại thế của Chúa Giê-su, đặc biệt là án phạt đóng đinh và sự phục sinh. Bố Cục 1. Khởi đầu của Phúc Âm 1:1-13 2. Chức vụ của Chúa Giê-su tại Ga-li-lê 1:14–9:50 3. Hành trình từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem 10:1-52 4. Tuần lễ cuối cùng tại Giê-ru-sa-lem 11:1–15:47 5. Sự phục sinh của Chúa Giê-su 16:1-8 6. Sự xuất hiện và thăng thiên của Chúa Giê-su 16:9-20 Chức Vụ Của Giăng Báp-tít (Mat 3:1-12, 17; Lu 3:1-9, 15-17; Gi 1:19-28) Khởi đầu1:1 Ctd: Ban đầu Phúc Âm. Một số học giả cho rằng câu này là tựa đề của sách Phúc Âm Mác Phúc Âm về Chúa Cứu Thế Giê-su,1:1 Nt: “Xristos”, Đấng được xức dầu Con Đức Chúa Trời.1:1 Một số bản cổ không có Con Đức Chúa Trời Như có chép trong sách tiên tri I-sa: “Này, Ta sẽ sai sứ giả Ta đến trước Con, Người sẽ dọn đường cho Con.”1:2 Mal 3:1 Có tiếng kêu vang trong đồng hoang:1:3 Isa 40:3 “Hãy sửa soạn đường Chúa, Đắp thẳng các lối Ngài.” Giăng Báp-tít xuất hiện trong đồng hoang, truyền giảng về phép báp-tem bày tỏ lòng ăn năn để được Chúa tha tội. Tất cả dân chúng thành Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê lũ lượt kéo đến cùng người. Sau khi xưng tội, họ được Giăng làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh. Giăng mặc áo lông lạc đà, thắt dây lưng da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người truyền giảng rằng: “Đấng đến sau ta, có quyền lực hơn ta, ta cũng không đáng quỳ xuống tháo quai dép Ngài. Chính ta làm lễ báp-tem cho các người bằng nước, nhưng Ngài sẽ làm phép báp-tem cho các người bằng Đức Thánh Linh.” Đức Giê-su Chịu Phép Báp-tem (Mat 3:13-17; Lu 3:21-22) Trong thời gian này,1:9 Ctd: trong những ngày đó Đức Giê-su từ thành Na-xa-rét xứ Ga-li-lê đến để Giăng làm phép báp-tem dưới sông Giô-đanh. Vừa bước ra khỏi nước, Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra và Đức Thánh Linh giáng trên Ngài như dạng chim bồ câu. Rồi có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Đức Giê-su Thắng Thử Thách (Mat 4:1-11; Lu 4:1-13) Ngay lúc ấy, Đức Thánh Linh thúc đẩy Ngài vào trong đồng hoang. Ngài ở trong đồng hoang với dã thú bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sau đó có thiên sứ đến phục vụ Ngài. Đức Giê-su Truyền Giảng Tại Miền Ga-li-lê (Mat 4:12-17; Lu 4:14-15) Sau khi Giăng bị tù, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê, truyền giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời. Ngài phán: “Giờ đã điểm, Nước Đức Chúa Trời đã đến gần, hãy ăn năn và tin nhận Phúc Âm.” Bốn Môn Đệ Đầu Tiên (Mat 4:18-22; Lu 5:1-11) Một hôm Đức Giê-su đi dọc theo bờ biển Ga-li-lê, Ngài thấy Si-môn và em là An-rê đang chài lưới dưới biển vì họ làm nghề đánh cá. Ngài gọi họ: “Hãy theo Ta, Ta sẽ khiến các người trở nên tay đánh lưới cứu người.”1:17 Ctd: thành ngữ này có nghĩa là dẫn người về với Chúa như ngư phủ lưới cá Họ liền bỏ lưới đi theo Ngài. Đi một quãng nữa, Ngài thấy Gia-cơ con trai của Xê-bê-đê với em là Giăng đang vá lưới trên thuyền. Ngài liền gọi họ. Hai người rời Xê-bê-đê cha mình và mấy người bạn chài trên thuyền, đi theo Ngài. Đức Giê-su Đuổi Tà Linh (Lu 4:31-37) Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-pha-na-um. Nhằm ngày Sa-bát Ngài vào hội đường bắt đầu giảng dạy. Người ta đều ngạc nhiên về sự dạy dỗ của Ngài, vì Ngài giảng dạy có thẩm quyền khác hẳn các giáo sư Kinh Luật. Ngay lúc ấy, trong hội đường, một người bị tà linh ám la lên: “Ông Giê-su Na-xa-rét ơi, ông muốn làm gì chúng tôi đây? Ông đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su nghiêm trách nó: “Im đi! Hãy xuất khỏi người này.” Tà linh vật mạnh người ấy, thét lên rồi ra khỏi. Mọi người có mặt đều kinh hoàng, nên bàn với nhau: “Cái gì vậy? Giáo lý mới lạ quá! Người dạy thì có quyền uy, đến cả tà linh cũng phải vâng lệnh.” Tức thì, danh tiếng Ngài đồn ra khắp miền Ga-li-lê. Chúa Chữa Bịnh Cho Nhạc Mẫu Của Phê-rơ (Mat 8:14-17; Lu 4:38-39) Vừa ra khỏi hội đường, Đức Giê-su đi với Gia-cơ và Giăng đến nhà Si-môn và An-rê. Bà gia Si-môn sốt nặng đang nằm trên giường, họ liền cho Ngài hay. Ngài đến gần, cầm tay đỡ bà dậy, cơn sốt liền dứt, rồi bà đứng dậy phục vụ họ. Chúa Chữa Bịnh Nhiều Người (Mat 8:16-17; Lu 4:40-41) Đến chiều khi mặt trời lặn, người ta đem cho Ngài cả người đau lẫn người bị quỷ ám. Dân cả thành tụ họp trước cửa. Ngài chữa lành nhiều người, đủ các chứng bệnh khác nhau, đuổi nhiều quỷ khỏi người bị ám, và không cho phép quỷ nói gì, vì chúng biết Ngài là ai. Truyền Giảng Phúc Âm Tại Ga-li-lê (Lu 4:42-44) Trời vừa mờ sáng Ngài dậy sớm, đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Si-môn cùng đồng bạn đi kiếm Ngài. Gặp được rồi, họ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy.” Nhưng Ngài đáp: “Chúng ta hãy vào các làng xã quanh đây, Ta còn phải truyền giảng ở đó nữa; chính vì việc này mà Ta đến.” Rồi Ngài truyền giảng tại các hội đường khắp miền Ga-li-lê và đuổi các quỷ. Chúa Chữa Người Phung (Mat 8:1-4; Lu 5:12-16) Một người phung đến quỳ xuống, khẩn cầu Ngài: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi lành.” Đức Giê-su động lòng thương xót, đưa tay sờ người và bảo rằng: “Ta muốn, hãy lành đi.” Lập tức bệnh phung biến mất, người phung được lành. Ngài liền cho người đi và nghiêm dặn: “Đừng nói việc này cho ai cả, nhưng hãy đến trình diện cùng thầy tế lễ và dâng lễ theo như luật Môi-se đã định để chứng tỏ cho họ biết là anh đã được sạch.” Nhưng người ấy đi loan báo việc này khắp nơi. Tin này đồn ra đến nỗi Đức Giê-su không thể nào vào thành cách công khai nhưng phải ở lại trong đồng hoang. Dân chúng khắp nơi kéo đến với Ngài. Chúa Chữa Lành Người Bại (Mat 9:1-8; Lu 5:17-26) Mấy ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-pha-na-um. Nghe tin Ngài ở nhà, dân chúng kéo về đông đảo đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ và Ngài dạy đạo cho họ. Có bốn người khiêng một người bại liệt đến cho Ngài. Vì quá đông họ không thể đến gần, nên dỡ mái nhà ngay trên chỗ Ngài, và khi đã dỡ được một lỗ trống họ dòng cái cáng đưa người bại liệt xuống. Thấy đức tin của họ, Đức Giê-su bảo người bại: “Này con, tội lỗi con đã được tha.” Mấy giáo sư Kinh Luật ngồi đó lý luận trong lòng: “Tại sao ông này nói vậy? Phạm thượng quá! Ngoài Đức Chúa Trời không ai có quyền tha tội!” Lập tức, tâm trí2:8 Nt: trong tâm linh Đức Giê-su nhận biết ngay họ đang lý luận thầm như vậy nên phán: “Tại sao các ông lý luận trong lòng như thế? Bảo rằng: ‘Tội con đã được tha,’ hay là: ‘Hãy đứng dậy mang cáng con về đi,’ điều nào dễ hơn? Nhưng để các ông biết trên thế gian Con Người có quyền tha tội, Ngài bảo kẻ bại liệt: ‘Này con, hãy đứng dậy mang cáng con về nhà.’ ” Người bại liệt liền đứng dậy mang cáng đi ra trước mắt mọi người đến nỗi ai nấy đều ngạc nhiên và tôn vinh Đức Chúa Trời: “Chúng ta chưa bao giờ thấy việc như thế này.” Chúa Gọi Lê-vi (Mat 9:9-13; Lu 5:27-32) Đức Giê-su lại đi ra dọc bờ biển, cả đám đông kéo đến với Ngài và Ngài dạy bảo họ. Thế rồi, đang khi đi, Ngài thấy Lê-vi con An-phê ngồi tại trạm thu thuế, thì bảo: “Hãy theo Ta.” Người đứng dậy theo Ngài. Sau đó Đức Giê-su ngồi ăn tại nhà Lê-vi, có nhiều người thu thuế và những kẻ bị coi là tội nhân cùng ngồi ăn với Ngài và môn đệ, vì nhiều người đã theo Ngài. Các giáo sư Kinh Luật thuộc phái Pha-ri-si thấy Ngài ăn chung với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi2:16 Theo quan điểm của người Do Thái vì họ không giữ nghi thức tôn giáo nên nói với các môn đệ Ngài: “Tại sao ông ấy ăn uống chung với bọn thu thuế và kẻ tội lỗi?” Khi nghe điều đó, Đức Giê-su đáp: “Không phải người mạnh khỏe cần thầy thuốc, mà là người đau ốm; Ta đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng gọi kẻ tội lỗi.” Vấn Đề Lệ Kiêng Ăn (Mat 9:14-17; Lu 5:33-39) Đang khi các môn đệ của Giăng và những người Pha-ri-si vẫn giữ lệ kiêng ăn, có người đến hỏi Ngài: “Tại sao môn đệ của Giăng và môn đệ của người Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn môn đệ của Thầy lại không?” Đức Giê-su đáp: “Có thể nào các chàng phụ rể2:19 Nt: các con của phòng hoa chúc kiêng ăn khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, bấy lâu họ khỏi phải kiêng ăn. Đến khi chàng rể đi rồi, lúc ấy họ mới kiêng. Không ai vá miếng vải mới vào áo cũ, vì miếng vải mới sẽ chằng rách áo cũ, và chỗ rách sẽ càng tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, nếu vậy rượu sẽ làm nứt bầu, rượu chảy hết mà bầu cũng hỏng. Rượu mới phải đổ vào bầu da mới.” Chúa Của Ngày Sa-bát (Mat 12:1-8; Lu 6:1-5) Một ngày Sa-bát kia Đức Giê-su đi ngang qua cánh đồng lúa mì. Đang khi đi các môn đệ bắt đầu bứt vài bông lúa. Mấy người Pha-ri-si nói với Ngài: “Kìa! Sao họ dám phạm luật trong ngày Sa-bát?” Ngài đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc đến chuyện vua Đa-vít đã làm trong khi vua và toán thuộc hạ lâm cảnh thiếu thốn và đói sao? Thể nào, vào thời thầy thượng tế A-bi-tha, vua vào nhà thờ Đức Chúa Trời ăn bánh trưng bày trên bàn thờ,2:26 Ctd: bánh dâng trên bàn thờ là bánh không ai được phép ăn ngoài các thầy tế lễ, và lại còn phân phát cho những người theo mình nữa.” Rồi Ngài bảo họ: “Ngày Sa-bát được thiết lập cho nhân loại chứ không phải nhân loại cho ngày Sa-bát. Thế thì Con Người chính là Chúa của ngày Sa-bát.” Người Teo Tay (Mat 12:9-14; Lu 6:6-11) Lần khác, Đức Giê-su đi vào hội đường, gặp3:1 Nt: gặp tại đó một người bị teo tay. Họ theo dõi xem Ngài có chữa lành cho người đó trong ngày Sa-bát không để tố cáo Ngài. Ngài bảo người teo tay: “Hãy đứng dậy đến giữa đây.” Rồi Ngài hỏi: “Trong ngày Sa-bát nên làm điều thiện hay điều ác? Cứu người hay giết người?” Nhưng họ đều im lặng. Ngài nhìn mọi người quanh mình, cảm thấy tức giận và buồn phiền vì lòng họ chai đá. Ngài bảo người teo tay: “Hãy duỗi tay ra.” Người duỗi tay ra, tay được lành lặn. Những người Pha-ri-si bỏ đi ra, liền họp với đảng viên Hê-rốt âm mưu để giết Ngài. Đoàn Dân Trên Bờ Biển Đức Giê-su và các môn đệ lánh về phía bờ biển. Một đoàn dân đông từ các miền Ga-li-lê, Giu-đa, Giê-ru-sa-lem, I-đơ-mia, bên kia sông Giô-đanh, miền xung quanh Ty-rơ và Sy-đôn kéo đến cùng Ngài vì họ đã nghe rất nhiều việc Ngài làm. Vì đông người nên Ngài dặn môn đệ chuẩn bị sẵn một chiếc thuyền con phòng khi bị lấn ép. Vì Ngài đã chữa lành nhiều người, nên những người bệnh tật chen lấn cốt để sờ vào Ngài. Mỗi khi tà linh thấy Ngài, chúng đều quỳ xuống trước mặt Ngài, la lớn: “Thầy là Con Đức Chúa Trời.” Nhưng Ngài nghiêm cấm chúng tiết lộ điều đó.3:12 Nt: bày tỏ Ngài Chúa Chọn Mười Hai Sứ-đồ (Mat 10:1-4; Lu 6:12-16) Đức Giê-su lên núi, gọi3:13 Gọi đến với Ngài những người Ngài3:13 Muốn chọn và họ đến với Ngài. Ngài thiết lập Mười Hai Sứ Đồ,3:14 Nhiều bản cổ thêm: mà Ngài gọi là các sứ đồ cho họ theo bên cạnh Ngài, để Ngài sai đi truyền giảng và ban cho quyền uy đuổi quỷ. Đây là mười hai người Ngài đã lập: Si-môn, Ngài đặt tên là Phê-rơ; Gia-cơ con Xê-bê-đê, và Giăng là em Gia-cơ, Ngài gọi họ là Bô-a-nẹt, nghĩa là con của sấm sét; An-rê, Phi-líp, Ba-thê-lê-mi, Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con của An-phê, Tha-đê, Si-môn người thuộc đảng Ca-na-an, và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ phản Ngài. Chúa Giê-su Và Quỷ Vương (Mat 12:22-32; Lu 11:14-23) Khi Đức Giê-su về đến nhà, dân chúng lại tụ họp đông đảo, đến nỗi Ngài và môn đệ không thể dùng bữa được. Thân nhân Ngài nghe vậy tìm đến canh chừng Ngài, vì họ bảo rằng Ngài bị quẫn trí. Nhưng các giáo sư Kinh Luật từ Giê-ru-sa-lem đến lại nói: “Ông ấy bị quỷ Bê-ên-xê-bun ám và cậy quỷ vương mà trừ quỷ.” Đức Giê-su kêu họ đến, dùng ngụ ngôn giải thích: “Làm sao Sa-tan có thể trừ Sa-tan được? Một nước tự chia rẽ thì nước ấy không sao đứng vững được, một nhà tự chia rẽ thì sẽ không đứng vững được. Nếu Sa-tan tự chống nghịch và chia rẽ thì không tồn tại được nhưng sẽ bị tiêu diệt. Không ai có thể vào nhà một người mạnh để cướp của mà không trói người mạnh kia trước, phải trói nó trước rồi mới cướp được.” Tội Phạm Đến Đức Thánh Linh (Lu 12:10) “Ta quả quyết với các ông: Mọi tội lỗi loài người phạm đều có thể tha được, kể cả những lời phạm thượng. Nhưng ai phạm thượng chống Đức Thánh Linh thì sẽ chẳng bao giờ được tha mà phải mắc tội muôn đời.” Sở dĩ Ngài nói như vậy vì họ cho rằng Ngài bị tà linh ám. Mẹ Và Các Em Chúa (Mat 12:46-50; Lu 8:19-21) Mẹ và các em Ngài đến đứng bên ngoài cho người gọi Ngài. Đoàn dân đông ngồi quanh Ngài, họ thưa với Ngài: “Kìa, mẹ và các em Thầy đang ở ngoài kia tìm Thầy.” Ngài đáp: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” Rồi Ngài quay lại nhìn những người ngồi chung quanh, mà bảo: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta? Vì người nào làm theo ý Đức Chúa Trời đều là anh em, chị em, và mẹ Ta.” Ngụ Ngôn Người Gieo Giống (Mat 13:1-9; Lu 8:4-8) Một lần khác, Đức Giê-su khởi sự giảng dạy nơi bờ biển. Một đoàn dân rất đông tụ tập quanh Ngài nên Ngài phải xuống ngồi trên một chiếc thuyền đậu dưới nước, còn cả đám đông ở trên bờ. Ngài dùng ngụ ngôn dạy họ nhiều điều; trong lúc dạy, Ngài bảo họ rằng: “Hãy nghe đây! Một nông dân đi ra gieo giống. Khi gieo, có hạt rơi trên đường mòn, chim đến ăn hết. Hạt khác rơi vào nơi có đá, chỉ có ít đất nên liền mọc ngay. Vì đất không được dày, lúc mặt trời mọc lên, thì bị sém nắng và không có rễ nên phải khô héo. Hạt khác nữa rơi nhằm chỗ gai góc, gai mọc rậm lên làm nghẹt ngòi không kết hạt được. Còn hạt rơi vào nơi đất tốt thì lớn lên, nẩy nở ra và kết quả, một hạt ra ba chục, hạt khác sáu chục, và hạt khác một trăm.” Rồi Ngài bảo: “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe!” Mục Đích Của Ngụ Ngôn (Mat 13:10-17; Lu 8:9-10) Khi còn lại một mình Đức Giê-su, mười hai sứ đồ và những người khác hỏi Ngài về ngụ ngôn ấy. Ngài đáp: “Sự huyền nhiệm Nước Đức Chúa Trời đã được ban cho các con. Nhưng đối với người ngoài thì dùng ngụ ngôn mà dạy mọi sự. Để: ‘Họ xem thì vẫn xem mà không thấy, Nghe thì vẫn nghe mà không hiểu, E họ hối cải và được tha tội chăng.’ ” Ý Nghĩa Ngụ Ngôn (Mat 13:18-23; Lu 8:11-15) Rồi Ngài bảo họ: “Các con không hiểu nổi ngụ ngôn này thì làm sao có thể hiểu được tất cả các ngụ ngôn khác? Người gieo giống là người gieo Đạo. Một số người như hạt giống trên con đường mòn, là nơi Đạo được gieo, họ vừa nghe xong liền bị Sa-tan đến cướp lấy Đạo đã gieo trong lòng. Một số người khác như hạt giống nơi có đá, vừa nghe Đạo họ liền vui mừng tiếp nhận. Nhưng trong lòng không có rễ, chỉ tạm bợ, khi gặp hoạn nạn, bắt bớ vì Đạo, họ liền vấp ngã. Một số người khác nữa như hạt giống nơi gai góc, họ nghe Đạo nhưng nỗi lo lắng về đời này, sự quyến rũ của giàu sang, và những dục vọng khác nữa nhập vào lòng khiến Đạo nghẹt ngòi không kết quả được. Còn số người khác như hạt giống nơi đất tốt, nghe Đạo thì nhận lấy và kết quả, một hạt ra ba chục, hạt khác sáu chục và hạt khác nữa một trăm.” Ngụ Ngôn Về Cây Đèn (Lu 8:16-18) Ngài cũng phán dạy: “Có ai thắp đèn lại để dưới cái thùng hoặc dưới gầm giường không? Chẳng phải cái đèn được đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng việc gì giấu kín mà lại không để tiết lộ ra, cũng chẳng việc gì giữ bí mật mà không để phơi bày. Nếu ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.” Ngài tiếp lời: “Hãy chú tâm đến những điều mình nghe, hễ các con đong đấu nào, thì được đong lại đấu ấy, và còn thêm nữa. Vì ai có sẽ được cho thêm, còn ai không có, sẽ mất luôn cả phần đang có.” Ngụ Ngôn Về Hạt Giống Ngài lại bảo: “Nước Đức Chúa Trời cũng ví như một người kia gieo hạt giống xuống đất. Dù ngủ hay thức, dù ngày hay đêm, hạt giống cứ mọc lên, đâm chồi nẩy lộc thể nào người ấy cũng không hay biết. Vì đất tự nó sinh hoa màu, trước hết là cây non, lớn lên trổ hoa, rồi kết hạt. Khi lúa chín, người cho4:29 Nt: đem liềm gặt hái ngay vì đã đến mùa thu hoạch.” Ngụ Ngôn Về Hạt Cải (Mat 13:31-32; Lu 13:18-19) Ngài lại bảo: “Chúng ta nên ví Nước Đức Chúa Trời với gì, hay nên dùng ngụ ngôn nào để trình bày? Nước Đức Chúa Trời ví như trường hợp hạt cải, lúc gieo xuống đất thì nhỏ hơn hết thảy các loại hạt trên đất. Nhưng khi gieo rồi, hạt mọc thành cây, lớn hơn mọi thứ rau, cành lá sum sê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới tàn cây.” Ngài dùng nhiều ngụ ngôn như thế để dạy Đạo tùy theo khả năng tiếp nhận của họ. Ngài chẳng dạy họ điều gì mà không dùng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng Ngài giải thích tất cả cho các môn đệ. Dẹp Yên Bão Tố (Mat 8:23-27; Lu 8:22-25) Chiều hôm ấy, Ngài bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy qua bờ bên kia.” Ngài vẫn còn ở dưới thuyền, các môn đệ đưa Ngài đi, tách khỏi đoàn dân, cũng có các thuyền khác cùng theo. Bỗng một cơn bão lớn nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền ngập nước, nhưng Ngài đang ở phía sau lái, dựa gối mà ngủ. Môn đệ đánh thức Ngài dậy: “Thầy ơi, Thầy không lo chúng ta chết cả sao?” Ngài thức dậy, quở gió và bảo biển: “Hãy êm đi, lặng đi!” Gió liền yên, và biển lặng như tờ. Rồi Ngài bảo các môn đệ: “Sao các con sợ đến thế? Không có đức tin sao?” Họ khiếp sợ bảo nhau: “Người là ai mà đến gió và biển cũng vâng lệnh?” Người Bị Quỷ Ám Và Đàn Heo (Mat 8:28-34; Lu 8:26-39) Đức Giê-su cùng môn đệ5:1 Họ đến bờ biển bên kia thuộc địa phận của người Giê-ra-sê. Một người bị tà linh ám từ nghĩa địa chạy ra đón khi Ngài vừa bước ra khỏi thuyền. Hắn sống nơi mồ mả, dù dùng dây xích cũng không ai xiềng hắn được. Đã nhiều lần bị cùm, bị xích, song hắn bẻ xích phá cùm, chẳng ai trị nổi. Suốt ngày đêm hắn lang thang nơi nghĩa địa và trên đồi hoang, la hét và lấy đá rạch mình. Khi thấy Đức Giê-su từ đằng xa hắn chạy đến quỳ lạy Ngài, kêu lớn lên rằng: “Lạy Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có làm gì đến Ngài đâu? Tôi cầu Trời xin Ngài đừng hành hạ tôi;” vì Đức Giê-su vừa bảo rằng: “Hỡi tà linh, hãy xuất khỏi người này.” Rồi Ngài lại hỏi: “Tên mày là gì?” Quỷ đáp: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông.” Quỷ nài xin Ngài đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy. Bấy giờ có đàn heo rất đông đang ăn trên đồi, các quỷ van nài Ngài: “Xin cho chúng tôi đến nhập vào bầy heo kia.” Ngài cho phép. Các tà linh xuất khỏi người bị ám và nhập vào bầy heo ước chừng hai ngàn con, cả bầy lao đầu qua bờ đá, rơi xuống biển chết chìm hết. Những kẻ chăn heo chạy trốn và đồn tin này khắp thành phố và thôn xóm gần đó. Dân chúng đến để xem việc gì đã xảy ra. Khi họ đến cùng Đức Giê-su và thấy người bị quỷ ám đang ngồi đó, quần áo chỉnh tề, tâm trí tỉnh táo, thì sợ hãi. Những người chứng kiến thuật lại cho họ nghe việc đã xảy đến cho người bị quỷ ám và bầy heo. Họ nài xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ. Khi Ngài bước lên thuyền, người vốn bị quỷ ám xin theo Ngài, nhưng Ngài không cho, lại bảo: “Con hãy về nhà, đến với họ hàng thân thuộc và thuật cho họ nghe mọi việc Đức Chúa Trời đã làm và thương xót con.” Người ấy đi khắp vùng Mười Thành kể lại những việc mà Đức Giê-su đã làm cho mình. Ai nấy đều kinh ngạc. Con Gái Giai-ru Và Người Đàn Bà Bị Bệnh Băng Huyết (Mat 9:18-26; Lu 8:40-56) Khi Đức Giê-su đi thuyền qua bờ bên kia, một đoàn dân đông đảo tụ họp đón Ngài dọc theo bờ biển. Viên quản lý hội đường5:22 Nt: một trong nhiều quản lý tên là Giai-ru đến, vừa thấy Đức Giê-su; người quỳ xuống nơi chân Ngài. Ông nài xin: “Con gái nhỏ tôi đang hấp hối, xin Thầy đến đặt tay cứu cho nó sống.” Ngài đi với ông, và đoàn dân rất đông kéo theo lấn ép Ngài. Trong đám đông, có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu khổ chạy chữa qua tay nhiều thầy thuốc, tốn hết tiền nhưng bệnh không khỏi, lại còn nặng hơn nữa. Nghe nói về Đức Giê-su, bà chen vào đám đông theo sau Ngài để sờ vào áo Ngài. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được áo Ngài, thế nào cũng lành bệnh.” Lập tức máu cầm lại và bà cảm biết mình đã được chữa lành. Đức Giê-su nhận biết ngay có một luồng năng lực vừa ra khỏi Ngài, nên quay lại phía đám đông hỏi: “Ai đã sờ vào áo Ta?” Các môn đệ Ngài thưa rằng: “Thầy thấy đám đông lấn ép mà sao Thầy còn hỏi: Ai sờ đến Ta?” Và Ngài nhìn quanh để xem người đã đụng vào mình. Người đàn bà nhận biết việc đã xảy ra cho mình thì run rẩy, sợ hãi, đến quỳ dưới chân Ngài mà trình bày tất cả sự thật. Ngài bảo bà: “Con ơi, đức tin con đã chữa lành cho con, hãy về bình yên, khỏe mạnh hết đau yếu.”5:34 Bệnh con dứt rồi, hãy sống mạnh mẽ Ngài còn đang nói, người nhà của Giai-ru, viên quản lý hội đường, đến nói rằng: “Con gái chủ qua đời rồi, còn phiền Thầy làm chi?” Nhưng Đức Giê-su chẳng quan tâm đến lời đó. Ngài bảo viên quản lý hội đường: “Đừng sợ, chỉ tin mà thôi.” Ngài chẳng cho ai theo mình, ngoại trừ Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng là em Gia-cơ. Khi đến nhà viên quản lý hội đường, Ngài thấy cả nhà huyên náo, đầy tiếng người khóc lóc, kể lể. Vừa bước vào nhà, Ngài bảo mọi người: “Tại sao lại khóc lóc ồn ào? Cháu không chết đâu, chỉ ngủ mà thôi!” Họ chế nhạo Ngài, nhưng Ngài bảo mọi người lui ra, chỉ cho cha mẹ và các môn đệ theo Ngài vào nơi đứa bé đang nằm. Cầm tay nó, Ngài gọi: “Ta-li-tha-cum,” nghĩa là: “Bé gái ơi, Ta truyền cho con, hãy dậy.” Cô bé liền chỗi dậy, bước đi vì đã lên mười hai tuổi. Ai nấy đều sững sờ kinh ngạc vô cùng. Ngài cấm ngặt họ không được tiết lộ việc này cho bất cứ ai và bảo cho cô bé ăn. Đức Giê-su Trở Về Na-xa-rét (Mat 13:53-58; Lu 4:16-30) Đức Giê-su rời khỏi nơi đó trở về quê hương, các môn đệ cùng theo Ngài. Đến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe Ngài giảng nên ngạc nhiên hỏi: “Nhờ đâu ông này được như vậy? Sao ông ấy sáng suốt đến thế? Sao ông ấy có thể làm được những phép lạ như vậy? Ông này chẳng phải là người thợ mộc, con trai bà Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sép, Giu-đa và Si-môn sao? Các em ông ấy chẳng ở giữa vòng chúng ta đây sao?” Vì thế họ bực tức với Ngài. Đức Giê-su bảo họ: “Có tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương, giữa vòng bà con, và nhà mình đâu!” Tại đó Ngài không thể làm được việc quyền năng nào, ngoại trừ đặt tay chữa lành một vài người bệnh. Chúa ngạc nhiên vì lòng không tin của họ. Công Tác Của Mười Hai Sứ Đồ (Mat 10:5-15; Lu 9:1-6) Đức Giê-su đi khắp các làng quanh đó giảng dạy. Ngài gọi mười hai sứ đồ đến, sai họ đi từng toán hai người và ban cho họ quyền uy trên các tà linh. Ngài truyền bảo họ đừng mang gì theo khi đi đường, ngoại trừ một cây gậy; không lương thực, không túi xách, không một đồng xu giắt lưng,6:8 Nt: trong dây thắt lưng nhưng chỉ mang dép và đừng mặc hai áo choàng. Ngài dặn: “Hễ nhà nào các con vào hãy cứ ở đó cho đến khi ra đi. Nơi nào không tiếp hoặc không chịu nghe lời các con, hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi nơi chân mình để làm bằng chứng cảnh cáo6:11 Ctd: làm chứng nghịch họ.” Các sứ đồ lên đường, truyền giảng Phúc Âm, kêu gọi người ta ăn năn hối cải. Họ đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh. Cái Chết Của Giăng Báp-tít (Mat 14:1-12; Lu 9:7-9) Vua Hê-rốt nghe đồn về Đức Giê-su vì danh tiếng Ngài đồn ra khắp nơi. Một số người nói: “Giăng chết rồi mà nay sống lại, nên mới làm được những phép lạ ấy.” Một số khác bảo: “Đấy là Ê-li,” một số khác nữa nói: “Đây là một tiên tri cũng như các tiên tri của Chúa.” Nhưng khi nghe vậy, vua Hê-rốt bảo rằng: “Đây chính là Giăng mà ta đã truyền chém, nay sống lại.” Số là vua Hê-rốt đã sai bắt Giăng xiềng vào ngục, vì cớ Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, em vua và vua đã cưới nàng. Vì Giăng đã can vua không nên lấy Hê-rô-đia, vợ Phi-líp, em mình, một việc làm trái luật. Nên bà Hê-rô-đia căm giận muốn giết Giăng nhưng không làm gì được. Vì vua Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là người chính trực và thánh thiện, nên tìm cách bảo vệ ông. Vua rất thích nghe lời Giăng, dù mỗi khi nghe, Vua thường bối rối. Thời cơ đã đến: Nhân lễ sinh nhật, vua Hê-rốt mở tiệc thết triều thần, bá quan văn võ và các thân hào, nhân sĩ miền Ga-li-lê. Con gái bà Hê-rô-đia vào trình diễn một vũ khúc làm vua Hê-rốt và các khách dự tiệc say mê, nên vua bảo nàng rằng: “Con muốn gì, cứ xin trẫm sẽ ban cho.” Vua lại còn thề: “Con xin gì trẫm cũng ban, dù cả nửa giang san cũng được.” Cô gái liền ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì đây?” Mẹ cô bảo: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.” Cô gái vội vã trở vào, tâu với vua: “Xin bệ hạ cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm.” Vua rất buồn, nhưng đã lỡ thề trước mặt quan khách nên không thể từ chối. Vua liền sai một đao phủ, truyền đem đầu Giăng đến. Người ấy vào ngục chém đầu Giăng, rồi để đầu trên mâm mà đem cho cô gái, và cô gái trao lại cho mẹ. Hay tin ấy, các môn đệ của Giăng đến lấy thi hài người về chôn cất. Chúa Hóa Bánh Cho Năm Ngàn Người Ăn (Mat 14:13-21; Lu 9:10-17; Gi 6:1-14) Các sứ đồ nhóm họp cùng Đức Giê-su và tường trình cho Ngài mọi điều họ đã thực hiện và dạy. Ngài bảo họ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút.” Vì kẻ đi người lại đông đúc, đến nỗi họ không có thì giờ ăn uống. Ngài và các môn đệ lên thuyền đi đến một nơi thanh vắng. Nhiều người thấy vậy và nhận biết chỗ đó nên từ các thành thị kéo nhau chạy bộ tới trước. Vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy đoàn dân đông đúc thì động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy họ nhiều điều. Trời đã xế chiều, các môn đệ đến thưa với Ngài rằng: “Đây là nơi vắng vẻ và đã gần tối, xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng xóm quanh đây mua gì để ăn.” Nhưng Ngài đáp: “Chính các con hãy cho họ ăn.” Môn đệ thưa: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng đê-na-ri6:37 Trị giá khoảng một năm lương của một nhân công bánh cho họ ăn sao?” Ngài bảo: “Các con đi xem thử ở đây có bao nhiêu bánh?” Khi đã xem xét xong, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá.” Ngài truyền cho các môn đệ bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, nhóm thì một trăm, nhóm thì năm mươi. Đức Giê-su cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi bẻ bánh đưa cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng, Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. Ai nấy đều ăn no nê. Bánh và cá còn thừa đựng đầy mười hai giỏ. Trong số người ăn có khoảng năm ngàn người đàn ông. Chúa Đi Trên Mặt Biển (Mat 14:22-33; Gi 6:15-21) Đức Giê-su liền truyền cho các môn đệ lên thuyền, qua phía thành Bết-sai-đa trước, rồi Ngài giải tán dân chúng. Khi họ đã ra về, Ngài lên núi cầu nguyện. Tối đến, thuyền ra giữa biển, còn một mình Ngài trên bờ. Ngài thấy các môn đệ chèo chống vất vả vì gió ngược. Khoảng bốn giờ sáng đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến cùng họ và định vượt qua họ. Các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt biển thì tưởng là ma nên kêu la thất thanh, vì ai nấy đều trông thấy và hoảng sợ. Nhưng Ngài liền bảo họ: “Hãy yên tâm, Ta đây, đừng sợ!” Ngài vừa bước lên thuyền với họ thì gió lặng yên. Mọi người đều kinh ngạc, vì họ vẫn không hiểu phép lạ hóa bánh và lòng họ còn cứng cỏi. Chúa Chữa Bệnh Tại Ghê-nê-sa-rết (Mat 14:34-36) Qua bờ bên kia, Đức Giê-su và các môn đệ cặp bến Ghê-nê-sa-rết. Vừa ra khỏi thuyền, dân chúng đã nhận biết Ngài. Họ chạy ngược xuôi khắp vùng, hễ nghe Ngài ở đâu thì khiêng những người bệnh nằm trên cáng đến đó. Bất cứ nơi nào Ngài đến, dù làng mạc, thành phố hay thôn quê, người ta đều đem người bệnh lại các khu họp chợ và nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào gấu áo Ngài. Bao nhiêu người sờ đến Ngài, đều được lành cả. Tranh Luận Về Tục Lệ (Mat 15:1-9) Có mấy người Pha-ri-si và các giáo sư Kinh Luật từ Giê-ru-sa-lem xuống, họp nhau cùng đến gặp Đức Giê-su. Họ thấy vài môn đệ của Ngài dùng bữa nhưng tay không thanh sạch, nghĩa là không rửa tay trước khi ăn. (Người Pha-ri-si và cả dân Do Thái đều không ăn nếu không rửa tay theo tục lệ cổ truyền. Khi ở chợ về, nếu không nhúng hẳn tay vào nước theo lệ thanh sạch, họ cũng không ăn. Họ còn giữ nhiều tục lệ khác như thanh tẩy chén bát, bình đất và đồ đồng.) Nên người Pha-ri-si và các giáo sư Kinh Luật chất vấn Ngài: “Tại sao môn-đệ Thầy không giữ lệ của người xưa, dùng tay không thanh sạch mà ăn như thế?” Ngài đáp: “I-sa đã nói tiên tri rất đúng về các ông, những kẻ đạo đức giả rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng Nhưng lòng chúng nó xa cách Ta. Họ thờ phượng Ta thật vô ích, Dạy giới luật con người như là giáo lý,’ Gạt bỏ điều răn của Đức Chúa Trời Để giữ tục lệ của loài người.”7:8 Isa 29:13 Ngài còn thêm rằng: “Các ông đã khéo léo gạt bỏ điều răn của Đức Chúa Trời để giữ tục lệ của mình, vì Môi-se đã nói: ‘Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi’7:10 Xuất 20:12; Phục 5:16 và ‘ai nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử,’7:10 Xuất 21:17; Lê 20:9 nhưng các ông lại bảo: ‘Một người thưa với cha mẹ rằng những gì mình có để phụng dưỡng cha mẹ thì đã kể là co-ban’ (nghĩa là đã dâng cho Đức Chúa Trời). Các ông không còn cho người ấy báo hiếu cha mẹ nữa. Vì giữ các tục lệ cổ truyền, các ông đã làm cho đạo của Đức Chúa Trời trở thành vô hiệu. Các ông còn làm nhiều điều tương tự khác nữa.” Ô Uế Và Tinh Sạch (Mat 15:10-20) Sau đó Ngài lại gọi dân chúng đến và phán dạy: “Hết thảy hãy lắng nghe Ta và tìm hiểu: Người ta bị ô uế không phải vì những gì từ ngoài vào, nhưng những gì từ trong ra mới làm cho người ô uế. Nếu ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.”7:16 Nhiều bản cổ không có câu 16 Khi Ngài rời khỏi đám đông và vào trong nhà, môn đệ hỏi Ngài về ngụ ngôn ấy. Ngài bảo họ: “Đến các con mà cũng không hiểu được à? Sao các con chẳng biết rằng không vật gì từ ngoài vào có thể làm ô uế con người được. Vì nó không vào trong tâm hồn người ta, chỉ xuống bụng rồi bài tiết ra nơi kín đáo.” Như vậy Chúa tuyên bố tất cả thực phẩm đều thanh sạch. Ngài lại tiếp: “Chính điều phát xuất từ tâm địa mới làm cho người bị ô uế, vì từ bên trong, vì từ tâm hồn con người mà ra những ác tưởng, gian dâm, trộm cắp, sát nhân, ngoại tình, tham lam, độc ác, lừa dối, phóng đãng, ganh ghét, phỉ báng, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những việc xấu xa này đều phát xuất từ bên trong và làm ô uế con người.” Người Đàn Bà Ca-na-an (Mat 15:21-28) Sau đó, Ngài rời nơi ấy để vào miền Ty-rơ. Ngài vào một ngôi nhà, không muốn cho ai biết, nhưng không sao giấu được. Vừa nghe Ngài đến, một người đàn bà có con gái nhỏ bị tà linh ám đến quỳ dưới chân Ngài. Bà là người Hy Lạp thuộc sắc dân Sy-ri Phê-ni-xi. Bà van xin Ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái mình. Ngài bảo bà rằng: “Hãy để con cái ăn no nê đã, vì không lẽ lấy bánh của con mà ném cho chó con.” Bà thưa: “Lạy Chúa, đúng như vậy, nhưng chó con dưới bàn ăn những miếng bánh vụn của con cái.” Chúa bảo bà: “Bà đã nói thế thì hãy về đi, quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi.” Về đến nhà, bà thấy con gái mình đang nằm trên giường và quỷ đã ra khỏi. Đức Giê-su Chữa Người Điếc Và Ngọng Đức Giê-su lại rời thành phố miền Ty-rơ đi ngang qua thành Sy-đôn hướng đến vùng biển Ga-li-lê để vào miền Mười Thành. Người ta đem đến cho Ngài một người điếc và ngọng, nài xin Ngài đặt tay chữa trị. Ngài dắt anh ấy ra khỏi đám đông rồi đặt ngón tay vào lỗ tai và nhổ nước miếng thấm vào lưỡi anh. Ngài ngước mắt lên trời, thở dài và bảo người: “Ép-pha-ta!” Nghĩa là: “Hãy mở ra.” Tức thì tai anh mở ra, lưỡi được thong thả và anh nói rõ ràng. Ngài cấm dân chúng không được thuật chuyện đó với ai, nhưng Ngài càng cấm họ lại càng đồn ra. Dân chúng vô cùng ngạc nhiên và nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt lành, khiến cả kẻ điếc nghe và người câm nói được.” Chúa Hóa Bánh Cho Bốn Ngàn Người Ăn (Mat 15:32-39) Trong khoảng thời gian đó, lại có một đoàn dân đông đảo tụ tập và cũng không có gì ăn nên Đức Giê-su gọi các môn đệ đến bảo: “Ta thương xót đoàn dân này vì họ đã ở với Ta ba ngày mà không có gì ăn. Nếu Ta để họ nhịn đói về nhà, chắc họ sẽ ngất xỉu dọc đường vì có một số người từ xa đến.” Các môn đệ thưa: “Trong miền hoang vắng này tìm đâu ra bánh cho họ ăn.” Ngài hỏi: “Các con có mấy cái bánh?” Họ thưa: “Dạ bảy cái.” Ngài truyền cho đoàn dân ngồi xuống đất, rồi lấy bảy cái bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời, bẻ ra, đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. Họ cũng có vài con cá nhỏ; Ngài ban phước rồi bảo môn đệ đem phân phát. Ai nấy đều ăn no, còn những miếng bánh thừa người ta thu được bảy giỏ. Số người ăn ước chừng bốn ngàn. Rồi Ngài cho họ về, còn Ngài và các môn đệ liền lên thuyền sang vùng Đa-ma-nu-tha. Dấu Lạ Từ Trời (Mat 16:1-4) Một số người Pha-ri-si đến tìm cách tranh luận với Ngài, xin Ngài làm một dấu lạ từ trời để thử Ngài. Ngài than thở trong lòng:8:12 Nt: thở dài trong tâm linh “Tại sao thế hệ này đòi xem dấu lạ? Ta quả quyết cùng các ông, thế hệ này sẽ chẳng được dấu lạ nào.” Rồi Ngài rời họ, lên thuyền trở lại sang bờ bên kia. Men Của Người Pha-ri-si (Mat 16:5-12) Các môn đệ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. Ngài răn dạy họ: “Hãy thận trọng, đề phòng men của người Pha-ri-si và của đảng Hê-rốt.” Họ bàn cãi với nhau tại mình không có bánh. Biết điều đó, Ngài bảo họ: “Sao các con bàn cãi vì không có bánh? Sao các con vẫn chưa biết, chưa hiểu? Lòng các con vẫn còn cứng cỏi thế? Sao có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe? Các con chẳng nhớ gì sao? Khi Ta phân phát năm cái bánh cho năm ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Mười hai giỏ!” “Còn khi Ta phân phát bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Bảy giỏ!” Ngài bảo họ: “Vậy mà các con chưa hiểu sao?” Đức Giê-su Chữa Lành Người Mù Ở Bết-sai-đa Đức Giê-su và môn đệ vào thành Bết-sai-đa, người ta đem đến cho Ngài một người mù, xin Ngài đặt tay chữa lành. Ngài nắm tay người mù dắt ra khỏi làng, phun nước miếng vào mắt và đặt tay trên người anh rồi hỏi: “Anh có thấy gì không?” Người mù ngước nhìn, và thưa rằng: “Tôi thấy người ta như cây cối đi qua đi lại.” Ngài lại đặt tay trên đôi mắt anh; anh ngước nhìn lên, mắt liền được sáng, thấy rõ mọi vật. Ngài bảo anh về nhà và dặn rằng: “Đừng trở vào trong làng.” Phê-rơ Xưng Nhận Đức Giê-su Là Chúa Cứu Thế (Mat 16:13-20; Lu 9:18-21) Đức Giê-su và các môn đệ đi đến các làng thuộc vùng Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi: “Người ta nói Ta là ai?” Họ đáp: “Có người nói Thầy là Giăng Báp-tít, người cho là Ê-li, cũng có người bảo là một trong các tiên tri của Chúa.” Ngài lại hỏi: “Còn các con nói Ta là ai?” Phê-rơ thưa rằng: “Thầy là Chúa Cứu Thế.” Ngài nghiêm cấm các môn đệ không được nói cho ai biết về Ngài. Đức Giê-su Báo Trước Về Cái Chết Của Ngài (Mat 16:21-28; Lu 9:22-27) Rồi Đức Giê-su bắt đầu dạy họ: “Con Người phải chịu nhiều khốn khổ, sẽ bị các trưởng lão, các thượng tế, các giáo sư Kinh Luật khai trừ, giết chết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại.” Ngài nói điều này cách công khai; Phê-rơ mời riêng Ngài ra can gián. Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ, rồi quở Phê-rơ: “Sa-tan, hãy lui ra sau Ta, vì con không lưu tâm đến việc Đức Chúa Trời, nhưng chỉ nghĩ đến việc loài người.” Điều Kiện Để Làm Môn Đệ Chúa Sau đó, Đức Giê-su gọi dân chúng và các môn đệ đến truyền dạy rằng: “Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta phải từ bỏ bản thân mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. Vì người nào muốn cứu mạng sống8:35 Nt: Psyche có hai nghĩa linh hồn hoặc mạng sống mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta và Phúc Âm mà mất mạng sẽ cứu được mạng mình. Vì nếu một người được cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì? Vì người sẽ lấy gì để đánh đổi linh hồn mình lại? Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người đó khi Ngài trở lại trong vinh quang của Cha Ngài với các thiên sứ thánh của Ngài.” Vinh Quang Của Đức Giê-su Thể Hiện (Mat 17:1-13; Lu 9:28-36) Rồi Ngài bảo họ: “Ta quả quyết với các con, một số trong những người đang đứng đây sẽ không chết9:1 Nếm sự chết cho đến khi thấy Nước Đức Chúa Trời thể hiện trong quyền năng.” Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem riêng Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng lên một ngọn núi cao, rồi Ngài hóa hình9:2 Nt: biến hình trước mặt họ. Y phục Ngài trở nên sáng chói và trắng tinh, không một ai trên đời có thể làm trắng như vậy. Ê-li và Môi-se hiện ra cùng họ và hầu chuyện với Đức Giê-su. Phê-rơ thưa cùng Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng ta ở đây thật tốt. Chúng con xin dựng ba trại, một cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li.” Phê-rơ không biết mình nói gì, vì họ đều kinh hoàng. Rồi một đám mây kéo đến che phủ họ và từ trong mây có tiếng phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy nghe lời người.” Họ chợt nhìn quanh, nhưng không thấy ai cả, chỉ còn một mình Đức Giê-su. Khi xuống núi, Ngài cấm họ không được nói với ai điều mình vừa thấy, cho đến ngày Con Người từ cõi chết sống lại. Họ vâng giữ lời ấy, nhưng tự hỏi: “Sống lại từ cõi chết” có nghĩa gì? Sau đó các môn đệ hỏi Ngài: “Sao các giáo sư Kinh Luật bảo Ê-li phải đến trước?” Ngài đáp: “Thật thế, Ê-li đã đến trước để phục hồi mọi việc. Vậy, sao cũng có chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bạc đãi? Ta cho các con biết: Ê-li đã đến rồi và họ đối xử với người theo ý họ, như Kinh Thánh đã ghi chép về người.” Đứa Trẻ Bị Quỷ Ám (Mat 17:14-21; Lu 9:37-43) Khi xuống đến chỗ các môn đệ khác, Đức Giê-su và ba môn đệ thấy đoàn dân đông vây quanh, cũng có các giáo sư Kinh Luật đang tranh luận với các môn đệ ấy. Vừa thấy Ngài, cả đám đông rất ngạc nhiên chạy đến đón. Ngài hỏi các môn đệ: “Các con đang tranh luận với họ việc gì thế?” Một người trong đám đông lên tiếng: “Thưa Thầy, tôi đem con trai tôi đến với Thầy, nó bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu quỷ nhập vào là vật nó ngã xuống, làm nó sùi bọt mép, nghiến răng rồi cứng đờ ra. Tôi có xin môn đệ Thầy đuổi quỷ ấy, nhưng họ không trừ nổi.” Ngài đáp: “Thế hệ này sao vô tín quá! Ta phải ở với các ngươi cho đến chừng nào? Ta phải chịu đựng các ngươi cho đến bao giờ? Hãy đem nó đến cho Ta.” Họ đem đứa trẻ đến cùng Ngài. Vừa thấy Ngài, quỷ liền vật nó dữ dội; nó ngã xuống đất lăn lộn, sùi bọt mép. Ngài hỏi cha nó: “Nó bị bệnh thế này đã bao lâu rồi?” Người cha thưa: “Từ lúc cháu còn bé, đã nhiều lần quỷ đẩy cháu vào lửa và xô xuống nước để giết cháu. Dù sao, nếu được, xin Thầy thương tình giúp chúng tôi.” Đức Giê-su bảo: “Sao ông lại nói ‘nếu được?’ Ai tin thì mọi việc đều được cả.” Cha đứa bé liền kêu lớn: “Tôi tin, xin Thầy giúp tôi có lòng tin.” Thấy đoàn dân đông chạy đến, Đức Giê-su quở tà linh: “Quỷ câm và điếc kia, Ta truyền cho mày phải ra khỏi đứa trẻ này, không được nhập lại nữa.” Quỷ câm rú lên một tiếng, vật ngã đứa trẻ rồi ra khỏi. Đứa trẻ bất động như chết nên nhiều người nói: “Nó chết rồi!” Nhưng Đức Giê-su cầm tay nó, đỡ dậy nên nó đứng lên. Khi Ngài vào nhà, các môn đồ hỏi riêng Ngài: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?” Ngài bảo họ: “Loại quỷ này phải cầu nguyện9:29 Có cổ bản khác: cầu nguyện và kiêng ăn mới đuổi được.” Đức Giê-su Lại Báo Trước Về Sự Thương Khó Của Ngài (Mat 17:22-23; Lu 9:43-45) Từ nơi đó, Đức Giê-su và các môn đệ băng ngang qua xứ Ga-li-lê, Ngài không muốn cho ai biết. Ngài đã dạy các môn đệ rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người ta, sẽ bị giết và sau khi chết ba ngày, Người sẽ sống lại.” Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài. Ai Cao Trọng Hơn Trong Nước Đức Chúa Trời (Mat 18:1-5; Lu 9:46-48) Họ đến thành Ca-pha-na-um, vào nhà rồi, Ngài hỏi họ: “Trên đường, các con tranh luận gì với nhau?” Nhưng họ đều im lặng vì khi đi đường đã tranh luận với nhau ai là người lớn hơn hết. Ngài ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại và bảo: “Nếu ai muốn làm đầu thì phải làm rốt và phục dịch mọi người.” Ngài đem một em bé để đứng giữa các môn đệ, rồi ôm nó vào lòng bảo: “Nếu ai vì danh Ta tiếp nhận một đứa trẻ như đứa này tức là tiếp Ta; còn ai tiếp Ta thì không phải chỉ tiếp Ta nhưng cũng tiếp Đấng đã sai Ta.” Không Thù Là Bạn (Lu 9:49-50) Giăng thưa cùng Ngài: “Thưa Thầy, chúng con thấy một người nhân danh Thầy đuổi quỷ, chúng con đã tìm cách ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Nhưng Đức Giê-su đáp: “Đừng ngăn cản vì chẳng có ai nhân danh Ta làm phép lạ lại nói xấu Ta được. Ai không nghịch với chúng ta là thuận với chúng ta. Ai nhân danh Ta cho các con uống một chén nước vì các con thuộc về Chúa Cứu Thế, Ta quả quyết cùng các con, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.” Cám Dỗ (Mat 18:6-9; Lu 17:1-2) “Còn ai gây cho một trong những đứa trẻ này đã tin Ta, phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ người ấy mà quăng xuống biển còn hơn. Còn nếu tay con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một tay mà được sự sống còn hơn là đủ cả hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa chẳng hề tắt. (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.)9:44 Các bản Hy-lạp cổ không có câu này Còn nếu chân con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một chân mà được sự sống còn hơn là đủ hai chân mà bị quăng vào hỏa ngục. (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.)9:46 Các bản Hy-lạp cổ không có câu này Còn nếu mắt con gây cho con phạm tội, hãy móc đi; thà bị chột mắt mà vào Nước Đức Chúa Trời còn hơn là đủ hai mắt mà bị quăng xuống hỏa ngục, là nơi sâu bọ chẳng hề chết và lửa không hề tắt. Vì mỗi người sẽ bị muối bằng lửa. Muối vốn tốt lành, nhưng nếu mất chất mặn đi, các con lấy gì làm cho mặn lại? Hãy có muối trong mình và sống hòa bình với nhau.” Vấn Đề Ly Dị (Mat 19:1-12; Lu 16:18) Từ nơi đó, Đức Giê-su đi vào vùng đất Giu-đê phía bên kia sông Giô-đanh. Đoàn dân đông lại họp nhau đến với Ngài, và như thường lệ Ngài dạy dỗ họ. Các người Pha-ri-si đến hỏi như vầy để gài bẫy Ngài: “Đàn ông có được phép ly dị vợ không?” Ngài đáp: “Môi-se truyền dạy các ông điều gì?” Họ thưa: “Môi-se cho phép viết giấy ly dị để bỏ vợ.” Đức Giê-su bảo họ: “Chính vì lòng các ông chai lì nên người đã viết cho các ông điều luật đó. Nhưng từ lúc ban đầu trong cuộc sáng tạo, Đức Chúa Trời đã dựng nên một nam và một nữ. Vì thế người nam phải lìa cha mẹ mình để kết hợp với vợ, và cả hai sẽ trở nên một thân.10:8 Nt: Thịt Như vậy họ không còn là hai nữa mà là một thân. Thế thì, khi Đức Chúa Trời đã kết hợp, loài người đừng phân rẽ.” Khi vào nhà, các môn đệ lại hỏi Ngài về việc ấy. Ngài trả lời: “Người nào bỏ vợ để cưới người khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ. Còn nếu đàn bà bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình.” Đức Giê-su Ban Phước Cho Con Trẻ (Mat 19:13-15; Lu 18:15-17) Người ta đem trẻ con đến cùng Đức Giê-su để Ngài đặt tay10:13 rờ trên chúng nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Đức Giê-su bất bình nên bảo: “Hãy để con trẻ đến cùng Ta, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Đức Chúa Trời thuộc về những ai giống như các con trẻ đó. Ta nói thật cùng các con, ai không tiếp nhận Nước Đức Chúa Trời như một trẻ thơ thì chẳng được vào đó.” Rồi Ngài ôm các con trẻ vào lòng, đặt tay ban phước cho chúng. Người Giàu (Mat 19:16-30; Lu 18:18-30) Khi Ngài vừa lên đường có một người chạy đến quỳ trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống vĩnh phúc?” Ngài bảo người: “Tại sao anh gọi Ta là nhân lành, không có ai nhân lành trừ một mình Đức Chúa Trời. Anh đã biết các điều răn: ‘Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng ăn cắp, đừng làm chứng dối, đừng lường gạt, phải hiếu kính cha mẹ.’ ” Người ấy đáp: “Thưa Thầy, tôi đã giữ những luật này từ khi còn nhỏ.” Đức Giê-su nhìn anh, thấy thương và bảo: “Ngươi còn thiếu một điều, hãy đi bán hết những gì ngươi có đem cho kẻ nghèo, ngươi sẽ có kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta.” Khi nghe như vậy, mặt mày người ủ rũ, buồn rầu bỏ đi vì người có nhiều tài sản lắm. Đức Giê-su nhìn quanh và bảo các môn đệ: “Người giàu rất khó vào Nước Đức Chúa Trời!” Các môn đệ ngạc nhiên khi nghe những lời ấy nên Ngài nhắc lại: “Hỡi các con, vào Nước Đức Chúa Trời thật là khó! Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Đức Chúa Trời.” Các môn đệ quá ngạc nhiên, thưa cùng Ngài: “Như thế thì ai có thể được cứu?” Đức Giê-su nhìn họ bảo: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng với Đức Chúa Trời thì khác, vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự.” Phê-rơ phân trần: “Thưa Thầy, chúng con đã từ bỏ tất cả để theo Thầy.” Đức Giê-su đáp: “Ta quả quyết cùng các con, không một người nào vì Ta và Phúc Âm từ bỏ gia đình, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, ruộng đất, mà chẳng lãnh được trong đời này gấp trăm lần nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con và ruộng đất, cùng sự bắt bớ và sự sống vĩnh phúc. Nhưng nhiều người ở hàng đầu sẽ xuống cuối và người cuối sẽ lên đầu.” Đức Giê-su Báo Trước Về Sự Chết Và Sự Sống Lại Của Ngài Lần Thứ Ba (Mat 20:17-19; Lu 18:31-34) Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi trước dẫn đầu họ. Các môn đệ ngạc nhiên, và những kẻ tháp tùng thì sợ hãi. Ngài đem mười hai sứ đồ riêng ra mà nói cho họ những việc sẽ xảy đến cho mình. Ngài bảo: “Này, chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và các giáo sư Kinh Luật, họ sẽ lên án xử tử Người và nộp cho dân ngoại quốc. Họ sẽ chế nhạo, nhổ trên Người, đánh đập và giết Người đi. Ba ngày sau Người sẽ sống lại.” Lời Thỉnh Cầu Của Gia-cơ Và Giăng (Mat 20:20-28) Gia-cơ và Giăng, hai con trai của Xê-bê-đê, đến cùng Đức Giê-su mà thỉnh cầu: “Thưa Thầy, chúng con mong ước Thầy ban cho những điều chúng con cầu xin.” Ngài hỏi: “Các con muốn Ta làm điều gì cho các con?” Họ thưa: “Khi Thầy được hiển vinh xin cho chúng con một đứa ngồi bên phải, một đứa ngồi bên trái Thầy.” Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Các con không biết điều mình xin. Các con có thể uống được chén Ta phải uống và chịu được báp-tem mà Ta phải chịu không?” Họ trả lời: “Thưa được.” Đức Giê-su bảo họ: “Chén Ta uống các con sẽ uống, báp-tem Ta chịu các con sẽ chịu; nhưng ngồi bên phải hay bên trái của Ta thì không tự Ta cho được. Địa vị đó đã dành cho người được chuẩn bị trước.” Mười môn đệ kia nghe được điều đó thì giận Gia-cơ và Giăng. Đức Giê-su gọi họ đến mà bảo: “Các con biết những kẻ được coi là người cai trị của dân ngoại thì thống trị dân, còn các quan lớn thì dùng quyền thế để cai trị. Nhưng giữa vòng các con thì không phải như vậy, vì ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ các con. Còn ai muốn làm đầu trong các con, thì phải làm nô lệ cho mọi người. Vì Con Người đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người.” Người Mù Ở Giê-ri-cô (Mat 20:29-34; Lu 18:35-43) Họ đến Giê-ri-cô. Khi Đức Giê-su và môn đệ cùng đoàn dân rời Giê-ri-cô, một người mù tên Ba-ti-mê, con trai của Ti-mê đang ngồi ăn xin bên đường. Nghe nói đó là Giê-su người Na-xa-rét thì anh ấy kêu lên: “Đức Giê-su, Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Nhiều kẻ quở mắng anh ấy, bảo phải im lặng, nhưng anh càng kêu lớn hơn nữa: “Lạy Con vua Đa-vít, xin thương xót con!” Đức Giê-su dừng lại, bảo: “Gọi người ấy đến đây.” Họ kêu người mù và bảo: “Hãy yên tâm, đứng dậy, Thầy gọi anh đó.” Người ấy bật dậy, vứt áo và đến cùng Đức Giê-su. Ngài hỏi: “Ngươi muốn Ta giúp điều gì?” Người mù thưa: “Thưa Thầy, con muốn sáng mắt trở lại!” Ngài bảo: “Hãy đi đi, đức tin của ngươi đã chữa lành ngươi.” Lập tức người ấy thấy được và đi theo Ngài. Đức Giê-su Vào Thành Giê-ru-sa-lem (Mat 21:1-11; Lu 19:28-40; Gi 12:12-19) Khi họ gần đến Bết-pha-giê và Bê-tha-ni tại núi Ô-liu gần thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, và dặn rằng: “Hãy vào làng đối diện các con, vừa đến nơi các con sẽ thấy một con lừa con chưa ai cưỡi đang cột tại đó. Hãy mở ra và dắt về đây. Nếu có ai hỏi: ‘Tại sao các anh làm vậy?’ Hãy bảo họ: ‘Chúa cần dùng nó, rồi sẽ trả lại đây ngay.’ ” Họ đi và thấy một con lừa con đang cột trước cửa một căn nhà bên đường. Họ mở lừa ra. Vài người trong số người đứng đó hỏi: “Các anh mở lừa con này làm gì?” Hai môn đệ trả lời như Đức Giê-su đã dặn, thì người ta để cho họ đi. Họ đem lừa về cho Đức Giê-su, trải áo mình trên nó, rồi Ngài ngồi lên. Nhiều người trải áo mình trên đường, người khác trải lá cây vừa chặt ngoài đồng. Người đi trước, kẻ theo sau đều tung hô: “Hô-sa-na!11:9 Xin Chúa cứu Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Phước cho vương quốc sắp đến của vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta! Hô-sa-na trên nơi chí cao!” Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem, đi vào đền thờ và quan sát mọi vật chung quanh. Lúc ấy trời đã tối nên Ngài và mười hai môn đệ đi về Bê-tha-ni. Cây Vả Chết Khô (Mat 21:18-19) Ngày hôm sau, khi họ rời làng Bê-tha-ni, Đức Giê-su cảm thấy đói. Từ xa Ngài thấy một cây vả đầy lá nên đến tìm xem thử có trái nào không, nhưng khi đến nơi Ngài chỉ thấy lá vì lúc ấy chưa phải là mùa vả. Đức Giê-su bảo cây vả rằng: “Từ nay về sau sẽ không một ai ăn trái của mày nữa.” Và các môn đệ Ngài đều nghe lời ấy. Đức Giê-su Vào Đền Thờ (Mat 21:12-17; Lu 19:45-48; Gi 2:13-22) Họ đến Giê-ru-sa-lem, khi vào đền thờ Đức Giê-su bắt đầu đuổi những người mua bán trong đền thờ. Ngài lật đổ bàn của bọn đổi tiền và ghế của những kẻ bán bồ câu. Ngài cấm không cho ai đem đồ vật qua lại trong đền thờ. Rồi Ngài truyền dạy họ: “Không phải Kinh Thánh đã chép rằng: ‘Nhà Ta sẽ gọi là Nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc sao?’ Nhưng các ngươi đã biến thành hang trộm cướp!” Các thượng tế và các giáo sư Kinh Luật nghe được điều này thì tìm cách diệt Ngài vì họ sợ Ngài, bởi cả đoàn dân ngưỡng mộ sự giáo huấn của Ngài. Tối đến, Đức Giê-su và các môn đệ rời khỏi thành phố. Bài Học Cây Vả (Mat 21:20-22) Sáng hôm sau, khi đi ngang qua đó, họ thấy cây vả đã chết khô đến tận rễ. Phê-rơ nhớ lại nên thưa cùng Đức Giê-su: “Thưa Thầy xem kìa, cây vả mà Thầy quở đã chết khô rồi.” Đức Giê-su trả lời: “Hãy có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Thật, Ta nói cùng các con, ai bảo ngọn núi này: Hãy cất lên và ném xuống biển mà lòng không chút nghi ngờ, nhưng tin những gì mình nói sẽ xảy ra thì sẽ đạt được. Vì thế, Ta bảo các con, bất cứ điều gì các con cầu nguyện và nài xin, hãy tin mình đã được thì các con sẽ được như vậy. Khi đang đứng cầu nguyện, nếu có điều gì bất bình với ai, các con hãy tha thứ, để Cha các con trên trời cũng tha thứ lỗi lầm cho các con. Nếu các con không tha lỗi cho người khác, thì Cha các con ở trên trời cũng không tha thứ những lỗi lầm cho các con.”11:26 Một số bản cổ không có câu này Thẩm Quyền Của Đức Giê-su (Mat 21:23-27; Lu 20:1-8) Họ lại lên Giê-ru-sa-lem. Khi Đức Giê-su đang đi trong đền thờ, các thượng tế, các giáo sư Kinh Luật, và các trưởng lão đến hỏi Ngài: “Bởi thẩm quyền nào Thầy làm những việc này? Ai cho Thầy thẩm quyền để có thể làm những việc đó?” Đức Giê-su trả lời: “Ta hỏi các ông một câu, các ông hãy trả lời cho Ta, rồi Ta sẽ tỏ cho các ông rõ bởi thẩm quyền nào Ta làm những việc này: ‘Giăng nhận thẩm quyền làm phép báp-tem từ Trời, hay từ người? Hãy trả lời cho Ta.’ ” Họ bàn luận với nhau: “Nếu chúng ta trả lời ‘từ Đức Chúa Trời’ thì người sẽ nói: ‘Vậy tại sao các người không tin lời Giăng?’ Nhưng chúng ta không thể nói: ‘Từ người?’ (Họ sợ dân chúng, vì mọi người đều tin rằng Giăng chính là vị tiên tri.) Nên họ trả lời Ngài: ‘Chúng tôi không biết.’ ” Đức Giê-su bảo: “Ta cũng sẽ không nói cho các người bởi thẩm quyền nào Ta làm những việc này.” Ngụ Ngôn Về Các Quản Gia Của Vườn Nho (Mat 21:33-46; Lu 20:9-19) Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu dùng ngụ ngôn nói với họ: “Một người kia trồng một vườn nho, dựng rào chung quanh, đào hầm ép rượu, và xây một tháp canh. Người ấy giao cho các người làm công rồi đi xa. Đến mùa nho, chủ vườn sai một đầy tớ đến cùng các người làm công để thâu phần hoa lợi. Nhưng các người làm công bắt đầy tớ ấy đánh đập rồi đuổi về tay không. Chủ vườn sai một đầy tớ khác, các người làm công nhục mạ và đánh nó bể đầu. Chủ sai một đầy tớ khác nhưng bị chúng giết chết và nhiều người khác nữa, kẻ thì bị chúng đánh đập, người bị chúng giết đi. Cuối cùng, còn lại con trai yêu dấu của mình, chủ sai con đến cùng họ, tự nhủ: ‘Chúng sẽ kính nể con ta.’ Nhưng bọn người làm công bàn với nhau: ‘Đây là con thừa tự, hãy giết nó đi thì tài sản này sẽ về tay chúng ta.’ Chúng bắt người con trai, giết đi và ném thây ra ngoài vườn nho. Vậy, chủ vườn nho sẽ làm gì? Người sẽ đến diệt bọn chúng và giao vườn cho những người làm công khác. Các ông chưa đọc lời Kinh Thánh này sao? ‘Viên đá bị thợ nề loại bỏ, Lại trở thành phiến đá đầu góc nhà; Chúa đã làm điều này, Và là việc kỳ diệu trước mắt chúng ta.’ ”12:11 Thi 118:22-23 Các lãnh tụ Do Thái tìm cách bắt Ngài, vì họ biết Ngài kể ngụ ngôn này để ám chỉ họ, nhưng vì sợ dân chúng nên bỏ Ngài mà đi. Nộp Thuế Cho Ai? (Mat 22:15-22; Lu 20:20-26) Vài người Pha-ri-si và đảng viên Hê-rốt được sai đến để gài bẫy Đức Giê-su trong lời nói của Ngài. Họ đến hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, không vị nể ai, vì Thầy không xem bề ngoài của người ta, nhưng trung thực dạy đường lối của Đức Chúa Trời. Xin Thầy cho biết nộp thuế cho Sê-sa đúng hay là không đúng? Chúng tôi có nên nộp thuế hay không?” Nhận biết dã tâm của họ, Ngài đáp: “Tại sao các ông thử Ta? Hãy đem cho Ta xem một đồng tiền.”12:15 Đê-na-ri: một đơn vị tiền tệ trị giá một ngày công Họ đem đến cho Ngài một đồng tiền. Ngài hỏi: “Hình và hiệu này của ai?” Họ đáp: “Của Sê-sa.” Ngài bảo: “Những gì của Sê-sa hãy trả cho Sê-sa, những gì của Đức Chúa Trời hãy trả cho Đức Chúa Trời.” Và họ ngạc nhiên về Ngài. Câu Hỏi Về Sự Sống Lại (Mat 22:23-33; Lu 20:27-40) Các người thuộc phái Sa-đu-sê là những người cho rằng không có sự sống lại, đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Môi-se đã viết cho chúng tôi rằng nếu một người chết để vợ lại nhưng không có con, người em trai phải cưới người vợ góa để có con nối dõi cho anh. Có bảy anh em kia, anh cả cưới vợ rồi chết nhưng không có con. Người em trai kế lấy người vợ góa đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người không ai để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày phục sinh, khi họ sống lại, nàng sẽ là vợ của ai? Vì cả bảy anh em đều đã lấy nàng làm vợ.” Đức Giê-su bảo: “Các ông lầm rồi! Các ông vẫn chưa hiểu Kinh Thánh và quyền năng của Đức Chúa Trời sao? Khi những kẻ chết sống lại sẽ không còn cưới vợ, lấy chồng nhưng giống như thiên sứ trên trời. Về việc kẻ chết sống lại, các ông không đọc kinh sách Môi-se nói về bụi gai, thế nào Đức Chúa Trời đã bảo ông: ‘Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp sao?’ Ngài là Đức Chúa Trời của người sống, chứ không phải của kẻ chết. Các ông lầm to.” Điều Răn Lớn (Mat 22:34-40; Lu 10:25-28) Một trong các giáo sư Kinh Luật đến đó nghe họ tranh luận và thấy Ngài trả lời rất hay, nên hỏi Ngài: “Trong tất cả các điều răn, điều nào lớn nhất?” Đức Giê-su đáp: “Đây là điều lớn nhất: ‘Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy lắng nghe! Chúa, Đức Chúa Trời chúng ta là Chúa duy nhất. Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết trí, hết sức mà yêu kính Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.’ Đây là điều răn thứ hai: ‘Hãy yêu thương người khác như chính mình.’ Không có điều răn nào lớn hơn hai điều này.” Giáo sư Kinh Luật nói cùng Ngài: “Thưa Thầy, Thầy nói đúng, chỉ có một Đức Chúa Trời, ngoài ra không có Đấng nào khác. Còn yêu kính Chúa hết lòng, hết trí, hết sức và yêu thương người khác như mình quan trọng hơn là dâng các tế lễ thiêu và mọi tế lễ khác.” Thấy người ấy trả lời khôn ngoan, Đức Giê-su bảo rằng: “Ông không xa Nước Đức Chúa Trời đâu!” Không còn ai dám chất vấn Ngài nữa. Câu Hỏi Về Đấng Cứu Thế (Mat 22:41-46; Lu 20:41-44) Khi giảng dạy trong đền thờ, Đức Giê-su hỏi: “Tại sao các giáo sư Kinh Luật lại nói rằng Chúa Cứu Thế là con vua Đa-vít? Chính Đa-vít bởi Đức Thánh Linh nói rằng: ‘Chúa12:36 Ctd: Đức Chúa Trời phán cùng Chúa tôi: Hãy ngồi bên phải Ta, Cho đến khi Ta đặt kẻ thù con Dưới chân con.’ Chính Đa-vít xưng Ngài bằng Chúa, lẽ nào Chúa Cứu Thế lại là con của vua?” Đám đông nghe Ngài cách thích thú. Cảnh Giác Về Các Giáo Sư Kinh Luật (Mat 23:1-36; Lu 20:45-47) Đang khi dạy dỗ, Ngài bảo: “Hãy coi chừng các giáo sư Kinh Luật là những kẻ thích mặc áo dài đi đây đó, và thích được cúi chào giữa chợ, muốn dành ghế chính trong các hội đường và chỗ danh dự trong các đám tiệc. Họ chiếm đoạt nhà của những người góa bụa và làm bộ đọc những lời cầu nguyện dài. Họ sẽ bị hình phạt nặng hơn.” Người Quả Phụ Dâng Hiến (Lu 21:1-4) Đức Giê-su ngồi đối diện rương đựng tiền dâng, Ngài quan sát cách những người đến bỏ tiền vào rương. Lắm người giàu có bỏ rất nhiều tiền, cũng có một bà góa nghèo đến dâng hai đồng tiền nhỏ, trị giá một xu. Ngài gọi các môn đệ đến và bảo họ: “Thật, Ta nói cùng các con, bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn hết thảy những người khác. Vì mọi người lấy phần dư để đem dâng, còn bà góa nghèo này đã dâng tất cả những gì mình có, là tất cả những gì bà ấy có để sống.” Đức Giê-su Nói Về Đền Thờ Bị Phá Hủy (Mat 24:1-2; Lu 21:5-6) Khi Đức Giê-su rời đền thờ, một môn đệ thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xem kìa, các khối đá khổng lồ và những công trình kiến trúc vĩ đại quá!” Đức Giê-su bảo: “Con có thấy những công trình kiến trúc to lớn đó không? Rồi sẽ không còn một khối đá nào chồng trên khối đá nào mà không bị đổ xuống.” Hoạn Nạn Và Bắt Bớ (Mat 24:3-14; Lu 21:7-19) Khi Ngài đang ngồi trên núi Ô-liu đối diện với đền thờ thì Phê-rơ, Gia-cơ, Giăng và An-rê đến hỏi riêng Ngài: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những việc ấy sẽ xảy ra và có dấu hiệu gì báo trước tất cả những điều này sẽ kết thúc.” Đức Giê-su bắt đầu bảo họ: “Hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt các con. Có nhiều người sẽ mạo danh Ta đến nói rằng: ‘Chính Ta là Đấng đó’ và họ sẽ lừa gạt nhiều người. Khi các con nghe về chiến tranh và tin đồn về chiến tranh thì đừng hoảng hốt, điều này phải xảy đến nhưng chưa phải là tận thế. Dân này sẽ nổi lên chống dân khác, nước nọ sẽ chống nước kia, nhiều nơi sẽ có động đất, sẽ có đói kém, đó chỉ là khởi đầu của cơn đau chuyển bụng. Chính các con phải coi chừng. Các con sẽ bị nộp cho các hội đồng, bị đánh đập trong các hội đường và vì Ta, các con sẽ phải đứng trước các thống đốc và vua để làm chứng. Nhưng trước đó Phúc Âm phải được truyền giảng cho muôn dân. Khi họ dẫn các con đi nộp, đừng lo trước những điều mình sẽ nói, nhưng hãy nói những gì các con được ban cho trong giờ đó, vì những điều các con nói không phải do các con nhưng bởi Đức Thánh Linh. Anh sẽ nộp em để bị giết, cha nộp con và con cái nổi lên chống cha mẹ làm cho cha mẹ bị giết. Vì danh Ta, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai kiên trì cho đến cuối cùng sẽ được cứu. Tai Họa Khủng Khiếp (Mat 24:15-28; Lu 21:20-24) Nhưng khi các con thấy sự tàn phá ghê tởm xảy ra nơi không nên xảy ra (ai đọc phải hiểu), thì ai ở trong miền Giu-đê phải trốn lên núi, ai ở trên mái nhà đừng xuống, cũng đừng vào nhà để lấy vật gì; ai ở ngoài đồng cũng đừng quay lại lấy áo. Khốn khổ cho những người đang mang thai và những ai có con thơ còn bú trong những ngày ấy. Hãy cầu xin cho việc này đừng xảy ra vào mùa đông. Vào những ngày đó sẽ có hoạn nạn mà từ thuở ban đầu, tức từ lúc Đức Chúa Trời sáng tạo vũ trụ cho đến bây giờ chưa hề có như vậy, và sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Nếu Chúa không giảm bớt các ngày ấy, không còn một ai sống sót. Nhưng vì cớ những người được chọn, là những người Ngài đã chọn, Ngài đã giảm các ngày ấy. Lúc bấy giờ, nếu có ai bảo các con: ‘Chúa Cứu Thế đây này!’ hay ‘Kìa Ngài ở đó!’ thì đừng tin. Vì sẽ có những Chúa Cứu Thế giả và tiên tri giả nổi lên, làm dấu lạ phép mầu để lừa dối, nếu có thể được, ngay cả những người được chọn. Hãy coi chừng vì Ta đã báo trước mọi điều đó cho các con. Con Người Xuất Hiện (Mat 24:29-31; Lu 21:25-28) Trong những ngày ấy, sau cơn hoạn nạn, Mặt trời sẽ tối, Mặt trăng sẽ hết sáng, Các ngôi sao từ trời sẽ rơi xuống Và những quyền năng trên không trung bị rúng động. Bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người ngự đến giữa các đám mây với vinh quang và quyền năng vĩ đại, rồi Ngài sẽ sai thiên sứ đi tập họp những người được chọn khắp bốn phương, từ chân trời đến góc biển.13:27 Từ bốn gió, từ khắp tận cùng đất và tận cùng bầu trời Bài Học Về Cây Vả (Mat 24:32-35; Lu 21:29-33) Hãy học bài học nơi cây vả: khi cây đâm chồi nẩy lộc,13:28 Khi nhánh non mọc ra và nứt lộc thì các con biết gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi các con thấy những điềm này xảy ra thì biết rằng Ngài đã đến gần nơi ngưỡng cửa. Ta nói thật cùng các con, thế hệ này sẽ không qua đi trước khi những việc đó xảy đến. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Ta phán sẽ không bao giờ qua đâu.” Ngày Và Giờ (Mat 24:36-44) Về ngày hay giờ ấy không ai biết được, ngay cả thiên sứ trên trời lẫn Con cũng vậy, ngoại trừ Cha. Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức vì các con không biết khi nào giờ đó sẽ đến. Cũng như một người kia lên đường đi xa, khi rời nhà, người giao quyền cho các đầy tớ cai quản công việc nhà, chia cho mỗi người một việc và dặn người gác cửa canh chừng. Vậy hãy thức canh, vì các con không biết khi nào chủ nhà đến, hoặc chiều tối, lúc nửa đêm, khi gà gáy hay ban mai, kẻo khi chủ về bất ngờ, bắt gặp các con đang ngủ. Những gì Ta bảo các con, Ta cũng bảo cho mọi người: “Hãy tỉnh thức!” Các Thầy Tế Lễ Lập Mưu Chống Đức Giê-su (Mat 26:1-5; Lu 22:1-2; Gi 11:45-53) Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và các giáo sư Kinh Luật lập mưu để bắt giết Đức Giê-su. Họ bàn rằng: “Không nên làm trong kỳ lễ, kẻo gây náo động trong dân chúng.” Đức Giê-su Được Xức Dầu Tại Bê-tha-ni (Mat 26:6-13; Gi 12:1-8) Tại Bê-tha-ni, trong nhà của Si-môn, một người phung, Đức Giê-su đang ngồi tại bàn ăn, một phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu cam tùng nguyên chất rất đắt tiền, đập bình ra, đổ dầu thơm xức đầu Ngài. Nhưng có mấy người tức giận nói với nhau: “Sao lại phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể đem bán được hơn ba trăm đồng đê-na-ri để cho kẻ nghèo,” rồi họ trách người phụ nữ. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Hãy để mặc bà, tại sao các con làm phiền bà ấy? Bà đã làm một việc tốt đẹp cho Ta. Vì các con vẫn có người nghèo ở với mình luôn và khi muốn, các con có thể làm phước cho họ, nhưng các con không có Ta mãi. Bà đã làm điều mình có thể làm, đã xức dầu thân thể Ta trước để mai táng. Thật Ta bảo các con, khắp thế giới hễ nơi nào Phúc Âm được truyền giảng, việc bà đã làm cũng sẽ được nhắc lại để tưởng nhớ người.” Giu-đa Đồng Ý Phản Chúa (Mat 26:14-16; Lu 22:3-6) Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ, đến gặp các thượng tế để phản nộp Đức Giê-su. Nghe vậy họ mừng lắm và hứa cho Giu-đa tiền bạc, còn Giu-đa tìm dịp phản nộp Ngài. Đức Giê-su Cùng Môn Đệ Đi Dự Lễ Vượt Qua (Mat 26:17-25; Lu 22:7-14, 21-23; Gi 13:21-30) Ngày đầu tiên của kỳ lễ Bánh Không Men, khi người ta dâng tế chiên con lễ Vượt Qua, các môn đồ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi sửa soạn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Ngài sai hai môn đồ đi và dặn họ: “Hãy vào trong thành, một người xách vò nước sẽ gặp các con, hãy theo người, và khi người vào nhà nào, các con hãy nói cùng chủ nhà ấy: ‘Thầy hỏi: Phòng dành cho khách để Ta ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ Ta ở đâu?’ Người sẽ chỉ cho các con một phòng rộng trên lầu đã được sắp đặt sẵn. Hãy dọn cho chúng ta tại đó.” Các môn đệ đi vào thành, gặp mọi điều như Ngài đã nói, và họ sửa soạn cho lễ Vượt Qua. Chiều tối, Ngài cùng đến với mười hai sứ đồ. Khi đang ngồi ăn, Đức Giê-su bảo họ: “Ta nói thật cùng các con, một người trong vòng các con, là người đang ăn với Ta, sẽ phản bội Ta.” Họ buồn rầu, từng người một hỏi Ngài: “Thưa Thầy, không phải con chứ?” Ngài nói với họ: “Ấy là một trong mười hai người, người chấm vào cùng đĩa với Ta. Vì Con Người đi như lời Kinh Thánh đã chép về Ngài, nhưng khốn thay cho kẻ phản bội Con Người! Thà nó đừng sinh ra thì hơn.” Lễ Tiệc Thánh (Mat 26:26-30; Lu 22:14-20; 1Cô 11:23-25) Đang khi ăn, Đức Giê-su lấy bánh, chúc phước, bẻ ra và đưa cho các môn đệ. Ngài bảo: “Hãy nhận lấy, đây là thân thể Ta.” Ngài cũng lấy chén, tạ ơn rồi trao cho họ, và tất cả đều uống. Ngài nói: “Đây là huyết giao ước đổ ra cho nhiều người. Thật, Ta nói cùng các con, Ta sẽ không uống nước nho này nữa cho đến ngày Ta uống nước nho mới trong Nước Đức Chúa Trời.” Sau khi đã hát thánh ca Đức Giê-su và các môn đệ đi ra để lên núi Ô-liu. Đức Giê-su Báo Trước Việc Phê-rơ Chối Ngài (Mat 26:31-35; Lu 22:31-34; Gi 13:36-38) Đức Giê-su bảo các môn đệ: “Tất cả các con đều sẽ vấp ngã, như lời Kinh Thánh đã chép: ‘Ta sẽ đánh người chăn Thì chiên sẽ bị tan lạc.’14:27 Xa 13:7 Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi đến Ga-li-lê trước các con.” Phê-rơ thưa với Ngài: “Dù mọi người sẽ vấp ngã, nhưng con sẽ không.” Đức Giê-su bảo ông: “Thật, Thầy bảo con, đêm nay trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối Ta ba lần.” Nhưng Phê-rơ càng quả quyết: “Dù phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy đâu.” Tất cả các môn đệ đều nói như vậy. Đức Giê-su Cầu Nguyện Tại Ghết-sê-ma-nê (Mat 26:36-46; Lu 22:39-46) Họ đi đến một chỗ gọi là Ghết-sê-ma-nê, rồi Ngài bảo các môn đệ: “Các con hãy ngồi đây, trong khi Ta cầu nguyện.” Ngài đem Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng theo và bắt đầu cảm thấy hãi hùng và đau buồn. Ngài bảo họ: “Linh hồn Ta buồn bã cho đến chết, hãy đợi ở đây và thức canh.” Ngài đi xa thêm một quãng, sấp mình xuống đất và cầu nguyện rằng: Nếu có thể được, xin cho giờ này qua khỏi con. Ngài thưa: “A-ba, Cha, mọi sự Cha có thể làm được, xin cất chén này khỏi con; nhưng không theo ý con, mà theo ý Cha.” Ngài trở lại thấy họ đang ngủ, nên bảo Phê-rơ: “Si-môn, ngủ rồi ư? Con không thể thức được một giờ sao? Phải tỉnh thức và cầu nguyện để các con khỏi sa vào sự cám dỗ, vì tâm linh thì mong muốn nhưng thể xác lại yếu đuối.” Ngài lại đi và cầu nguyện như trước. Ngài trở lại thấy họ đang ngủ vì mắt họ nặng trĩu và họ không biết trả lời Ngài thế nào. Ngài trở lại lần thứ ba và bảo họ: “Các con còn ngủ và nghỉ ngơi sao? Đủ rồi! Đã đến giờ Con Người bị nộp vào tay kẻ có tội. Đứng dậy, chúng ta đi! Kìa, kẻ phản Ta đã đến.” Đức Giê-su Bị Bắt (Mat 26:47-56; Lu 22:47-53; Gi 18:3-12) Ngay khi Ngài còn đang nói, Giu-đa, là một trong số mười hai sứ đồ, đến cùng với một đám đông cầm gươm và gậy do các thượng tế, giáo sư Kinh Luật và các trưởng lão sai đến. Kẻ phản bội cho họ một dấu hiệu này: “Hễ tôi hôn ai, chính là người đó, hãy bắt lấy và dẫn đi cho cẩn thận.” Vừa đến, Giu-đa lập tức tới gần Ngài và nói: “Chào Thầy!” rồi hôn Ngài. Chúng ra tay bắt Ngài. Một trong những người đứng đó rút gươm ra, đánh đầy tớ của vị trưởng tế, chém đứt tai nó. Đức Giê-su bảo họ: “Các ngươi cầm gươm và gậy đến bắt Ta như bắt kẻ cướp vậy sao? Hằng ngày Ta ở cùng các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà các ngươi không bắt. Nhưng việc xảy ra, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm.” Tất cả đều bỏ Ngài chạy trốn. Một thanh niên theo Ngài, trên người chỉ choàng tấm vải, và chúng bắt chàng, nhưng chàng bỏ lại tấm vải, trần truồng chạy thoát thân. Đức Giê-su Trước Tòa Công Luận (Mat 26:57-68; Lu 22:54-55, 63-71; Gi 18:13-14, 19-24) Họ dẫn Đức Giê-su đến vị trưởng tế. Tất cả các thượng tế, các trưởng lão và các giáo sư Kinh Luật đều họp tại đó. Phê-rơ theo Ngài xa xa, vào tới trong sân của vị trưởng tế, ngồi sưởi chung với đám cảnh vệ bên đống lửa. Các thượng tế và cả hội đồng tìm chứng cớ chống Đức Giê-su để xử tử Ngài, nhưng họ không tìm được gì. Nhiều người vu cáo chống Ngài, nhưng lời chứng của họ không hợp nhau. Có mấy người đứng lên vu cáo Ngài rằng: “Chúng tôi nghe hắn nói: ‘Ta sẽ phá hủy đền thờ xây cất bằng tay này, trong ba ngày Ta sẽ dựng một đền thờ khác không do tay người xây cất.’ ” Nhưng lời chứng của họ cũng không hợp nhau. Vị trưởng tế đứng lên giữa họ, hỏi Đức Giê-su: “Anh không đáp lại những lời tố cáo của những người này sao?” Nhưng Ngài im lặng, không trả lời chi cả. Vị trưởng tế lại hỏi: “Anh có phải là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời Phúc Lành14:61 Ctd: Đấng Phúc Lành không?” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên phải Đấng Quyền Năng14:62 Ctd: Đức Chúa Trời Quyền Năng hiện xuống trên mây trời.” Vị trưởng tế xé áo mình, tuyên bố: “Còn cần nhân chứng làm gì nữa? Quý vị đã nghe lời phạm thượng. Quý vị thấy thế nào?” Mọi người đều lên án Ngài đáng tội chết. Có mấy người bắt đầu nhổ vào Ngài, che mặt Ngài, đấm Ngài và nói với Ngài: “Hãy nói tiên tri đi!” Đám cảnh vệ cũng nắm lấy Ngài, tát Ngài. Phê-rơ Chối Chúa (Mat 26:69-75; Lu 22:56-62; Gi 18:15-18, 25-27) Khi Phê-rơ đang ở dưới sân, một trong những đầy tớ gái của vị trưởng tế đến, thấy Phê-rơ đang ngồi sưởi, nhìn kỹ ông rồi nói: “Anh cũng ở với ông Giê-su, người Na-xa-rét.” Nhưng Phê-rơ chối: “Tôi không biết, cũng không hiểu chị nói gì.” Rồi ông đi ra sân trước; lúc ấy gà gáy. Đứa đầy tớ gái thấy ông tại đó, lại bắt đầu nói với những người đứng chung quanh: “Người này thuộc đám đó.” Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người đứng quanh đó lại nói với Phê-rơ: “Đúng rồi, anh thuộc đám đó, vì anh cũng là người Ga-li-lê.” Ông bắt đầu rủa rồi thề: “Tôi không biết người các ông nói là ai.” Tức thì gà gáy lần thứ hai. Phê-rơ nhớ lại lời Đức Giê-su đã bảo mình: “Trước khi gà gáy hai lần, con sẽ chối Ta ba lần.” Ông liền khóc nức nở. Đức Giê-su Ứng Hầu Trước Phi-lát (Mat 27:1-2, 11-14; Lu 23:1-5; Gi 18:28-38) Vào lúc sáng sớm, các thượng tế cùng các trưởng lão, các giáo sư Kinh Luật và cả hội đồng họp hội nghị với nhau. Họ cho trói Đức Giê-su và dẫn đi nộp cho Phi-lát. Phi-lát hỏi Ngài: “Anh có phải là Vua dân Do Thái không?” Ngài đáp: “Chính ông nói điều đó.” Các thượng tế tố cáo Ngài nhiều điều. Phi-lát lại hỏi: “Anh không trả lời gì sao? Xem đấy, họ tố cáo anh nhiều điều.” Nhưng Đức Giê-su chẳng trả lời thêm, khiến Phi-lát càng ngạc nhiên. Đức Giê-su Bị Kết Án Tử Hình (Mat 27:15-26; Lu 23:13-25; Gi 18:39; 19:16) Vào dịp lễ, Phi-lát thường phóng thích một tù nhân do dân chúng yêu cầu. Có một người tên Ba-ra-ba bị tù cùng với những người nổi loạn. Người này đã can tội sát nhân trong một cuộc nổi dậy. Đám đông kéo đến, xin Phi-lát làm cho họ như thường lệ. Nhưng Phi-lát trả lời: “Các ngươi có muốn ta tha Vua dân Do Thái cho các ngươi không?” Vì ông biết do lòng ganh ghét mà các thượng tế đã nộp Ngài. Nhưng các thượng tế xúi giục đám đông xin tha Ba-ra-ba. Phi-lát đáp lại chúng: “Các ngươi muốn ta làm gì với người mà các ngươi gọi là Vua dân Do Thái?” Họ lại la lên: “Hãy đóng đinh hắn!” Phi-lát nói: “Tại sao? Người này đã làm điều ác gì?” Nhưng chúng càng la lên: “Hãy đóng đinh hắn!” Vì muốn làm vừa lòng đám đông nên Phi-lát tha Ba-ra-ba cho họ. Sau khi đánh đòn Đức Giê-su, ông giao Ngài cho họ đem đi đóng đinh. Quân Lính Chế Giễu Đức Giê-su (Mat 27:27-31; Gi 19:2-3) Quân lính dẫn Ngài vào bên trong công đường (tức là dinh thống đốc); và tập họp tất cả đội quân tại đó. Họ khoác cho Ngài một chiếc áo đỏ tía và đội cho Ngài một mão đan bằng gai. Họ chào Ngài: “Hoan hô Vua dân Do Thái!” Họ lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quỳ lạy Ngài. Sau khi chế giễu, họ lột áo tía ra, mặc áo của Ngài lại và dẫn đi để đóng đinh. Đức Giê-su Bị Đóng Đinh (Mat 27:32-44; Lu 23:26-43; Gi 19:17-27) Họ ép buộc Si-môn, người Sy-ren, cha của A-léc-xan-đơ và Ru-phu, vừa từ ngoài đồng về ngang qua đó vác thập tự giá cho Ngài. Họ đem Ngài đến một nơi gọi là đồi Gô-gô-tha, nghĩa là đồi Sọ. Họ cho Ngài uống rượu pha với một dược, nhưng Ngài không uống. Họ đóng đinh Ngài, rồi chia nhau áo của Ngài, bắt thăm để xem ai được phần nào. Vào lúc chín giờ sáng15:25 Nt: giờ thứ ba họ đóng đinh Ngài. Bảng án kết tội Ngài ghi: “Vua Dân Do Thái.” Họ cũng đóng đinh hai tên cướp chung với Ngài, một tên bên phải, một tên bên trái. Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm như vầy: “Ngài bị kể như những phạm nhân.”15:28 Isa 53:12 Một số văn bản cổ không có câu 28 Những kẻ đi ngang qua đó phỉ báng Ngài, lắc đầu nói rằng: “Ê! Người đòi phá hủy đền thờ và cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình, và xuống khỏi thập tự giá đi!” Các thượng tế và các giáo sư Kinh Luật cũng làm như vậy, họ chế nhạo Ngài và nói với nhau: “Hắn cứu kẻ khác mà không tự cứu mình được, bây giờ hãy để Chúa Cứu Thế, Vua dân Y-sơ-ra-ên, xuống khỏi thập tự giá cho chúng ta thấy và tin.” Hai tên cướp bị đóng đinh chung với Ngài cũng mắng nhiếc Ngài. Đức Giê-su Chết (Mat 27:45-56; Lu 23:44-49; Gi 19:28-30) Từ giữa trưa15:33 Giờ thứ sáu đến ba giờ chiều,15:33 Giờ thứ chín tối tăm bao trùm khắp đất. Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bách-tha-ni?”, nghĩa là: “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” Mấy người đang đứng đó nghe vậy, nói rằng: “Xem kìa, hắn gọi Ê-li.” Một người chạy đi lấy miếng bọt biển thấm đầy giấm, gắn trên đầu cây sậy đưa cho Ngài uống, nói rằng: “Hãy để yên! Coi Ê-li có đến đem hắn xuống không?” Nhưng Đức Giê-su kêu lên một tiếng lớn rồi tắt thở. Bức màn trong đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống dưới. Viên đội trưởng đứng đối diện với Ngài, thấy Ngài tắt thở như thế thì nói: “Người này thật là Con Đức Chúa Trời!” Cũng có những phụ nữ từ đàng xa nhìn xem, trong số ấy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ nhỏ và của Giô-sê, và Sa-lô-mê, là những người đã theo và phục vụ Ngài khi còn ở Ga-li-lê, và nhiều phụ nữ khác là những người cùng lên Giê-ru-sa-lem với Ngài. Lễ An Táng Đức Giê-su (Mat 27:57-61; Lu 23:50-56; Gi 19:38-42) Đến chiều tối, vì là ngày chuẩn bị trước ngày Sa-bát, Giô-sép người A-ri-ma-thê, một nghị viên đáng kính của hội đồng quốc gia, cũng là người đang trông đợi Nước Đức Chúa Trời, mạnh dạn đi đến gặp Phi-lát để xin thi thể Đức Giê-su. Phi-lát ngạc nhiên là Ngài đã chết rồi nên cho gọi viên đội trưởng đến hỏi xem Ngài đã chết lâu chưa. Được viên đội trưởng xác nhận, ông mới giao thi thể cho Giô-sép. Sau khi mua một tấm vải gai, ông đem Ngài xuống, quấn vải quanh thi hài, và đặt Ngài trong mộ đã được đục trong đá; rồi ông lăn một tảng đá chận cửa mộ. Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri mẹ Giô-sép đều thấy nơi mai táng Ngài. Chúa Giê-su Sống Lại (Mat 28:1-8; Lu 24:1-12; Gi 20:1-10) Sau ngày Sa-bát, Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ Gia-cơ và Sa-lô-mê mua hương liệu để đến xức thi hài Đức Giê-su. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lễ, họ đến mộ khi mặt trời vừa mọc. Họ nói với nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ cho chúng ta,” vì tảng đá lớn lắm. Nhưng khi nhìn lên, họ thấy tảng đá đã được lăn đi rồi. Vào trong mộ, họ thấy một thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải. Họ kinh hãi lắm. Người ấy nói với họ: “Đừng sợ, các bà tìm Đức Giê-su người Na-xa-rét đã bị đóng đinh. Ngài sống lại rồi, không còn ở đây. Hãy xem chỗ người ta đặt Ngài. Hãy đi nói cho các môn đệ của Ngài và cho Phê-rơ hay rằng Ngài đi trước các ông tới Ga-li-lê; tại đó các ông sẽ thấy Ngài như Ngài đã bảo các ông.” Ra khỏi mộ, họ bỏ chạy vì run rẩy và kinh khiếp; họ không dám nói gì với ai vì sợ hãi.16:8 Nhiều bản cổ sao đến đây là hết sách Phúc Âm theo Mác (Phần Kết Luận Dài) Đức Giê-su Hiện Ra Cùng Ma-ri Ma-đơ-len (Mat 28:9-10; Gi 20:11-18) Sau khi sống lại vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lễ, Đức Giê-su hiện ra trước hết cho Ma-ri Ma-đơ-len là người đã được Ngài trừ khỏi bảy quỷ dữ. Bà ấy đi báo tin cho những người đã từng ở với Ngài đang buồn rầu và khóc lóc. Khi nghe rằng Ngài đang sống và bà ấy đã thấy Ngài, họ không tin. Đức Giê-su Hiện Ra Cùng Hai Môn Đệ (Lu 24:13-35) Sau các việc này, Ngài hiện ra trong một dạng khác cho hai người trong số các môn đệ đang trên đường về vùng quê. Họ trở lại báo cho những người kia nhưng chẳng ai tin họ. Đức Giê-su Hiện Ra Cùng Mười Một Môn Đệ (Mat 28:16-20; Lu 24:36-49; Gi 20:19-23; Công 1:6-8) Sau đó, Đức Giê-su hiện ra cho mười một môn đệ khi họ đang ăn. Ngài trách sự vô tín và cứng lòng của họ vì họ không tin lời những người đã thấy Ngài sống lại. Ngài bảo họ: “Hãy đi khắp thế giới, truyền giảng Phúc Âm cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp-tem sẽ được cứu rỗi, ai không tin sẽ bị đoán phạt. Những người tin sẽ được các dấu lạ này kèm theo: Họ sẽ nhân danh Ta đuổi quỷ, nói các ngôn ngữ mới, bắt rắn, và nếu uống nhằm chất độc, cũng không bị hại; họ đặt tay trên người bệnh thì người bệnh sẽ được lành.” Đức Giê-su Thăng Thiên (Lu 24:50-53; Công 1:9-11) Vậy sau khi nói chuyện với họ, Chúa Giê-su được cất lên trời và ngự bên phải Đức Chúa Trời. Còn các môn đệ của Ngài ra đi truyền giảng khắp nơi, Chúa cùng làm việc với họ và xác chứng lời họ bằng nhiều dấu lạ kèm theo. A-men. Phần Kết Luận Ngắn Mấy người đàn bà báo tin cho Phê-rơ và những người đang ở với ông tất cả những gì đã được dặn bảo. Sau việc này, chính Đức Giê-su sai các môn đệ đi từ đông sang tây với sứ điệp thánh và bất diệt của sự cứu rỗi đời đời. A-men.